Gợi ý đáp án đề thi Ngữ văn dành cho mọi thí sinh (Đề Ngữ văn điều kiện) thi tuyển sinh vào trường THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội
Câu 1:
a. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn văn bản là phương thức nghị luận.
b. Biện pháp tu từ trong câu thơ là biện pháp so sánh. Biện pháp tu từ này giúp quê hương hiện lên cụ thể, thân thiết, gần gũi, gắn bó với mỗi người; giúp lời thơ hàm súc, giàu hình ảnh và sức biểu cảm, đồng thời bộc lộ rõ cá tính sáng tạo riêng của tác giả.
Câu 2:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
a. Về hình thức: Đoạn văn phải được viết theo hình thức lập luận diễn dịch, có dung lượng khoảng 10 câu.
b. Về nội dung:
– Viết câu chủ đề của đoạn văn: Quan niệm “sống ở trên đời”, con người phải “gian nan rèn luyện mới thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một quan niệm vừa ẩn chứa nhiều ý nghĩa, vừa thức tỉnh ở mỗi người nhiều suy nghĩ sâu xa.
– Viết nội dung đoạn:
- Giải thích: Trong quan niệm trên, “gian nan” là những khó khăn gian khổ phải vượt qua; còn “thành công” là đạt được kết quả, mục đích như dự định ban đầu, là thành đạt trong cuộc sống. Toàn bộ quan niệm trên đề cập đến vai trò quan trọng của quá trình “rèn luyện”, vượt qua những khó khăn gian khổ, thử thách đối với việc làm nên thành công trong cuộc đời của mỗi người.
- Bình luận:
– Thành công luôn là một quá trình, chứ không phải là điểm đến, nên để đạt được thành công, mỗi người đều phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu.
– Đường dài thường lắm dốc, sông dài thường lắm thác ghềnh; cuộc đời cũng thường nhiều gian nan, thử thách. Không vượt qua được gian nan, người ta sẽ thất bại; vượt qua được gian nan, sẽ đạt đến thành công. Những khó khăn, thử thách ấy giống như ngọn lửa thử vàng, càng làm ngời sáng hơn vẻ đẹp “vàng mười” của ý chí, nghị lực và bản lĩnh con người; giúp thành công của con người càng tỏa sáng rực rỡ hơn, càng trở nên có giá trị và ý nghĩa hơn.
- Bài học:
– Quan niệm trên rất đúng đắn, sâu sắc và giàu ý nghĩa, giúp mỗi người nhận thức sâu sắc hơn về vai trò quan trọng của quá trình “rèn luyện”, vượt qua những gian nan, thử thách đối với việc làm nên thành công trong cuộc đời của mỗi người.
– Thế hệ trẻ cần tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện, nỗ lực vượt qua mọi gian nan thử thách để đạt đếb thành công, góp phần dựng xây đất nước.
Câu 3:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm:
– Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, luôn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Nguyên Hồng). Ông có nhiều trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê, về cảnh ngộ, tâm lí và cuộc sống của người dân quê.
– Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ (1948). “Hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ tán. Trên khu ở mới, có tin đồn làng tôi là làng Việt gian. Mọi người đều nhìn những người dân làng với con mắt chế giễu, khinh thường. Tôi yêu ngôi làng của tôi và không tin làng tôi lại có thể đi theo giặc Pháp. Tôi viết truyện ngắn Làng như thể để khẳng định niềm tin của mình và minh oan cho làng tôi”. (Kim Lân)
2. Phân tích nhân vật ông Hai để làm rõ tình yêu làng tha thiết thống nhất với lòng yếu nước và tinh thần kháng chiến:
a. Tình yêu làng ở nhân vật ông Hai:
– Ông Hai vốn rất yêu cái làng chợ Dầu của mình, luôn hãnh diện khoe về nó, luôn nghĩ làng mình “tinh thần cách mạng lắm”. Vậy mà ở nơi tản cư, ông lại phải nghe cái tin làng mình theo giặc, lập tề. Đó là một tình huống bất ngờ, gay cấn, tạo diễn biến tâm lí gay gắt của nhân vật: Ông Hai đau xót, tủi hổ, day dứt trong sự xung đột, giằng xé giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Cả hai tình cảm này đều mãnh liệt, nhưng lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến vẫn rộng lớn hơn, bao trùm lên cả tình yêu làng.
– Chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước rộng lớn, hoà nhập thống nhất tình cảm làng quê vào tình cảm rộng lớn ấy. Ở ông Hai, tình cảm yêu làng luôn thống nhất với lòng yêu nước, với tinh thần kháng chiến
b. Tâm trạng của ông Hai trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc:
– Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng da diết, muốn về làng, muốn tham gia kháng chiến. Ông cũng mong nắng to cho Tây chết. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó với làng quê, tự hào và có trách nhiệm với cuộc kháng chiến của làng.
– Ở phòng thông tin, nghe được nhiều tin hay, nhất là những tin chiến thắng của quân ta, “ruột gan ông cứ múa cả lên, vui quá”. Điều này cho thấy ông luôn quan tâm tha thiết, nồng nhiệt đến cuộc kháng chiến.
– Như vậy, ông Hai là người nông dân có tính tình vui vẻ, chất phác, có tấm lòng gắn bó với làng quê và cuộc kháng chiến.
c. Nỗi đau đớn, tủi hổ của ông Hai khi nghe tin làng mình theo giặc:
– Từ phòng thông tin bước ra:
+ Đang rất phấn chấn náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp những người tản cư, nghe họ nhắc đến tên làng, ông Hai “quay phắt lại, lắp bắp hỏi”, hi vọng nghe được những tin tốt lành, nào ngờ lại hay tin cả làng mình Việt gian theo giặc, lập tề:
+ Khi nghe tin quá đột ngột ấy, ông Hai xấu hổ, uất ức, choáng váng, sững sờ như chết đứng: “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ, tuyệt vọng, bế tắc.
+ Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh.
+ Từ giây phút đó, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, trở thành nỗi day dứt ám ảnh nặng nề. Ông tìm cách lảng ra về, cố ra vẻ bình thản để che giấu tâm trạng, nhưng trong lòng đầy lo lắng, vừa xấu hổ trước mọi người, vừa tủi hổ cho chính mình. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”.
– Về đến nhà:
+ Ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con “nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?” Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu quê ấy. Ông cảm thấy như chính ông, và cả các con ông, đều phải mang nỗi nhục của một tên Việt gian bán nước.
+ Ông căm giận lũ người theo giậc, phản bội làng nước, nên “nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”. Vói ông Hai, trong hoàn cảnh giặc giã; lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến là những tình cảm thiêng liêng, còn sự phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất.
+ Nhưng ông lại “ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm”. Ông “kiểm điểm từng người trong óc”, thấy họ đều có tinh thần cả, họ đã quyết tâm ở lại, “một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy!…”. Niềm tin tưởng, nỗi nghi ngờ giằng xé ở trong ông.
– Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng binh tình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến cái chuyện ấy”, “Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông…là ông lủi ra một góc nhà, nín thít, thôi lại chuyện ấy rồi”. Cảm thấy mình có lỗi trong việc làng theo Tây, phản bội kháng chiến; ông Hai thu mình lại trong nỗi tủi hổ, đau xót, trằn trọc không ngủ, chẳng nói năng gì. Nỗi đau xót, tủi hổ trước cái tin làng theo giặc đã trở thành nỗi ám ảnh nặng nề, thành sự sợ hãi thường xuyên ở ông Hai, được nhà văn diễn tả vô cùng tinh tế.
– Khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông Hai đã bị đẩy vào tình thế bế tắc tuyệt vọng:
+ Ông không biết đi đâu vì không ai chứa chấp dân của cái làng Việt gian; cũng không thể quay về làng, vì về làng lúc này là phản bội kháng chiến, phản bội Cụ Hồ: “Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật đã lên đến đỉnh điểm, đòi hỏi phải được giải quyết.
+ Trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này; ông Hai buộc phải lựa chọn đau đớn giữa quê hương và Tổ quốc, giữa nghĩa nước với tình làng. Điều đó không đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ.
+ Một cuộc xung đột nội tâm gay gắt giữa tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã diễn ra ở ông Hai. Ông đã dứt khoát lựa chọn theo cách của mình: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Như vậy, tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là vẻ đẹp tâm hồn cao cả của con người Việt Nam, khi sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để sống với tình cảm chung của cả cộng đồng, của cả dân tộc và đất nước. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà ông càng xót đau, tủi hổ.
– Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ còn rất thơ ngây là bé Húc:
+ Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ – mà thực chất là lời tự nhủ với mình, tự minh oan cho mình – ông Hai đã hiện lên với những suy nghĩ và tình cảm vừa lớn lao cao cả, lại vừa sâu sắc, cảm động:
● Ông muốn đứa con nhỏ khắc cốt ghi tâm những điều thật giản dị mà thiêng liêng: “Nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đó là nỗi nhớ quê, là tình yêu thiết tha, sâu nặng với cái làng chợ Dầu của ông,
● Niềm tin tưởng mãnh liệt và tấm lòng chung thuỷ với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Dẫu cả làng theo giặc, ông vẫn một lòng theo kháng chiến. Tình cảm ấy là sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Như vậy, dù đau khổ tột cùng khi nghe tin làng mình theo giặc nhưng tấm lòng thủy chung, son sắt với cuộc kháng chiến thì vẫn không hề thay đổi.
+ Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai – một người nông dân – với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến.
d. Niềm sung sướng, tự hào của ông Hai khi nhận được tin cải chính về làng:
– Nhận được tin cải chính về làng, ông Hai như được hồi sinh, mọi đau khổ, tủi nhục như biến mất. Nỗi đau đớn, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc lớn lao bao nhiêu bao nhiêu thì niềm sung sướng, hãnh diện khi nhận được tin cải chính về làng cũng sâu sắc bấy nhiêu:
+ Niềm vui trở lại tràn đầy trên gương mặt, cử chỉ, dáng vẻ của ông: khăn áo chỉnh tề, mặt tươi vui rạng rỡ, mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy, nói bô bô, khao con bánh rán đường…
+ Ông hoan hỉ chạy đi khoe tin vui với tất cả mọi người. Đáng chú ý là câu đầu tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc; mà là “Tây nó đốt nhà tôi rồi… Đốt nhẵn”. Ông múa tay lên mà khoe cái tin ấy:
● Với người nông dân, ngôi nhà là cả cơ nghiệp, phải suốt đời căn cơ, xây dựng, giữ gìn. Vậy mà ông Hai không hề buồn tiếc về việc ngôi nhà mình bị đốt cháy, vì nó là minh chứng hùng hồn khẳng định làng ông không theo giặc. Nó còn là sự “đóng góp” nhỏ bé nhưng thiêng liêng và vẻ vang của gia đình ông với kháng chiến.
● Trong sự cháy rụi của nhà ông, có sự hồi sinh của làng Chợ Dầu – cái làng luôn anh dũng kháng chiến, thủy chung với cách mạng, với Cụ Hồ. Vì vậy, những mất mát nhỏ bé của gia đình ông chẳng thấm vào đâu trong niềm vui lớn lao về làng Chợ Dầu anh dũng.
● Chi tiết này đã thể hiện một cách đau xót và cảm động tấm lòng của người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến cứu nước, khi sẵn sàng hi sinh tất cả vì làng nước.
– Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai đã trở thành một công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện nhưng tình yêu nước được đặt cao hơn, rộng lớn hơn, bao trùm lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mà cũng mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của người nông dân trên đất Việt trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
e. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ông Hai:
– Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng, tư tưởng; bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông
– Tác giả miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ…Đặc biệt, tác giả đã diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ.
– Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai, dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, vừa mang đậm cá tính của nhân vật, rất sinh động.
Kết luận: Như vậy ở ông Hai tình yêu làng tha thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến.