Phân tích nhân vật ông Ngư trong đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn
Phân tích đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán của Nguyễn Du
Bài làm
Phải chăng, để định hướng cho người đọc tập trung chú ý vào nhân vật chính của truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên, các tác giả sách giáo khoa đặt tên cho đoạn trích từ câu 938 (“Đêm khuya…”) đến câu 976 (“… trong vời Hàn Giang”) là Lục Vân Tiên gặp nạn ? Nếu được phép góp ý, tôi chọn tên khác : Gặp nạn, Lục Vân Tiên được thần và dân cứu giúp ; Người hiền gặp người hiền; hoặc Ngư ông cứu giúp Lục Vân Tiên. Gọi bằng những tên ấy vì tôi cảm nhận thật rõ ràng, ở đoạn truyện này, hình tượng Lục Vân Tiên mờ đi chút ít. Trái lại, hai nhân vật phụ : Trịnh Hâm – tượng trưng cho kẻ ác, và Ngư ông – tiêu biểu cho người thiện – đậm nét hơn. Tại đây, cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không sôi động như đoạn Vân Tiên đánh cướp. Nó nhẹ nhàng mà thấm thía, đẹp như trong truyện cổ tích, trong những giấc mơ. Đoạn trích có hai nhân vật chính : Trịnh Hâm – kẻ độc ác và Ngư ông – người lương thiện. Bỏ qua nhân vật Trịnh Hâm, tập trung vào nhân vật Ngư ông, chúng ta sẽ thấm thìa vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng của đoạn thơ : “Thuyền nan một chiếc ở đời”… Cả gia đình, cuộc sống, việc làm, những nỗi niềm buồn vui, tâm sự của Ngư ông thu lại trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé, đơn sơ mà sao nhân cách con người, quan niệm về cuộc sống của ông rộng lớn, thanh cao đến thế! Xin lướt qua mấy dòng đầu của doạn thơ trích để tìm hiểu và suy nghĩ về những nét đẹp của nhân vật Ngư ông.
Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn “vớt ngay lên bờ”, rồi : Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Câu thơ mộc mạc, không đẽo gọt, trau chuốt, kể lại sự việc một cách tự nhiên, nhưng tả được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn. Cả nhà vây quanh nạn nhân. Mỗi người một việc, gấp gáp, khẩn trương, hết mình vì sư sống của nạn nhân. Khung cảnh ấy mới cảm động làm sao ! Việc làm ấv mới dẹp đc làm sao ! Chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào, nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu rất án cần chu đáo. Đó là bản tính của ngườ lương thiện, những người lao động bình thường. Vì vậy, khi Vân Tiên – người bị nạn – tỉnh dậy, xúc động kể mọi sự tình, tỏ lòng biết ơn, Ngư ông đáp luôn :
Ngư rằng : “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa, há chờ trả ơn ?
Lời ông Ngư dứt khoát, bộc trực, đúng cách nói của người lao động, đúng giọng điệu của vùng quê Nam Bộ, nghe thấm thìa tận cõi lòng. “Lòng lão chẳng mơ” là ông không ham muốn, ước mơ chút nào về tiền bạc, của cải. Ông chỉ “dốc lòng nhân nghĩa”, thương người, cố hết sức mình cứu giúp con người, luôn tìm việc nghĩa, hướng về điều thiện, thật hào hiệp, vô tư. Thấy Vân Tiên sống lại, nghe chàng kể những nỗi khổ đau, ông lão vừa vui mừng, vừa thương xót. Do đó lời ông mới chân thành cảm động đến thế. Cứu được Lục Vân Tiên, Ngư ông đã giành lại sự sống cho người lương thiện, đã làm được một việc nhân nghĩa. Việc làm ấy hoàn toàn trái ngược với việc làm và dã tâm của Trịnh Hâm. Hành động của ông tuy lặng lẽ, âm thầm, trên một chiếc thuyền nan mỏng manh, nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp cho điều thiện, người lương thiện chiến thắng cái ác, bọn người độc ác. Có thể nói ông chính là biểu tượng của cái thiện. Đáng kính, đáng trọng biết bao !
Đáng kính, đáng trọng hơn nữa là, cũng vẫn trên chiếc thuyền nan ấy, Ngư ông đã sống một cuộc sống, và suy nghĩ, quan niệm về cách sống thật lương thiện, thật đẹp đẽ. Chúng ta hãy xuống thuyền cùng Lục Vân Tiên chuyện trò, tâm sự với người dân bình thường làm nghề vạn chài, sông nước ấy. Ngỡ như không phải ông nói, mà đang ngân nga tiếng hát. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ, nghe như có tiếng phách tre, tiếng đàn kìm thong thả đệm theo. Hát rằng :
“…Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng…”.
Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước để “rửa ruột sạch trơn”, nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh, Ngư ông đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Tấm lòng ông trong sạch. Gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hoà nhập với biển trời, sông nước. Cặp từ “hứng gió” “chơi trăng” dựng một hình ảnh con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng, nhưng không mơ hồ, tuỳ tiện. Trái lại ông rất chủ động, ung dung:
“Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những nhát chèo khoá nước, nhặt khoan, khi mạnh mẽ, khi nhẹ nhàng. Lúc khoẻ thì quăng chài, kéo lưới, mệt mỏi thì túc tắc buông câu. Thật là một tấm gương lao động cần cù, chăm chỉ, luôn luôn làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống, sống trong sạch, phóng khoáng, tha hồ hưởng gió mát, trăng thanh, bồng bềnh trên sông nước. Cuộc sống ấy hạnh phúc biết bao ! Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông chài nói đến tiếng “vui” : “vui vầy”, “vui thầm”, rồi “vui say”. Lúc nào cũng vui, mỗi lúc một vui. Đi đây đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè bạn thì “vui vầy” ; giữa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn “vui thầm”. Ý thức sâu sắc về lẽ sống đúng đắn của mình trong trời đất giữa thế gian này, để “vui say”, sống lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của Ngư ông càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ đã cất cánh. Ngư ông hoá thành tiên ông, thành nghệ sĩ, nghệ sĩ dân gian của đất chín rồng, nhiều sông nước:
“Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế, vui say trong đời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”.
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa dòng sông rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời Ngư ông gắn liền với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chải tóc, vuốt râu. Hình ảnh chiếc thuyền nan, cũng như hình tượng nhân vật ông chài, đến đây, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn, cảm hứng của nhân vật, cũng là sự hứng khới của tâm hồn nhà thơ. Dường như nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyên, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống rất đáng trân trọng của những con người lương thiện, giàu nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, vui say hoà hợp với chất đời. Càng về cuối, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như trăng hoà nước, như nước được mái chèo khua động rung rinh.
Đọc truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật cao niên. Đó là những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất người lao động, chân dung cụ thể của đạo lí truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhân vật – nhất là nhân vật tích cực – bao giờ cũng là những mánh tâm hổn của tác giả. Tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu chứa chan tình cảm nhân nghĩa. Ngư ông – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng là một mảnh tâm hồn của nhà thơ ? Cuộc sống ấy hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen ích kỉ, lưu manh, trục lợi, chà đạp lên đạo đức của tên Trịnh Hâm bất lương, phản bạn. Như vậy doạn thơ trích nói lên sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ, tình cảm trân trọng là lòng tin yêu của tác giả đối với nhân dân lao động. Đây cũng là đoạn thơ giàu cảm xúc, khoáng đạt, ngôn ngữ bình dị, dân dã.
Chia tay vói nhân vật Ngư ông rất đáng kính, nhưng bên tai chúng ta vẫn còn văng vẳng câu thơ cuối đoạn trích :
“Thuyền nan một chiếc ở đời…”.
Nhớ đến Ngư ông, chúng ta lại chợt nhớ đến người đã sáng tạo ra hình tượng nhân vật – nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc đời Nguyền Đình Chiểu dường như cũng mong manh trôi nổi như chiếc thuyền của Ngư ông vậy.
Song cuộc đời ấy không phút nào ngơi nghỉ, truyền bá đạo lí làm người đấu tranh chống xâm lược. “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm – Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Trong bài Than đạo, ông đã viết như vậy. Truyện Lục Vân Tiên phải chăng là chuyến mở đầu trên con thuyền chở đạo, cần cù, kì diệu ấy ? “Trên trời có những vì sao, có ánh sáng khác thường, con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu là như vậy” (Phạm Văn Đồng).