Phân tích bài thơ tự tình II của Hồ Xuân Hương
Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng chỉ gặp toàn dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một mơ ước không thành.
Bài làm
Hồ Xuân Hương là một tác giả thơ có bản sắc tương dối rõ nét. Bản sắc ấy càng dược khẳng định và biếu hiện dưới nhiều sắc thái qua mỗi bài thơ. Thơ Hồ Xuán Hương giàu tâm trạng, giàu nồi niềm tâm sự. Nếu thi ca là sự tự thể hiện ở mức cao nhất cái tôi trừ tình cùa nhà thơ, thì ờ Hồ Xuân Hương đặc điểm bản chát này của thơ càng được bộc lộ nổi bật. Nhiều bài thơ của bà là sự giãi bày tâm sự. Một trong số dó là thi phẩm Tự tình.
Phân tích bài thơ tự tình II
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã nêu lên bối cảnh của một không gian và thời gian. Giữa đem khuya thanh vắng, thấp thoáng hiện lên hình dáng một người phụ nử. Đứng trước không gian bao la, rộng lớn của non sông, Hồ Xuân Hương đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là dối diện với cõi lòng sâu thăm thẳm, u uất tám sự, nồi niềm của chính mình. Thật là khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp, thanh vắng, buồn tẻ, trông trải đến nao lòng. Với tâm trạng cô đơn chán chường, “Bà chúa thơ Nôm” đã cảm nhận kiếp người thật là nhỏ nhoi, phù du. Sự cô đơn đã bám riết lấy bà ngay cả lúc đêm khuya. Nó như con sâu, con mọt gặm nhấm, cắn xé, đục khoét tâm hồn bà khiến bà bứt rứt, đứng ngồi không yên, ngay cả khi nghe tiếng trống canh cũng thấy ngột ngạt, bối rối.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh.
Càng uống lại càng tỉnh. Càng muôn quên thì những kí ức đau buồn lại thi nhau ùa về như muôn “trêu ngươi” người nừ sĩ tài hoa này. Vòng đời luẩn quẩn, bế tắc, sự chán chường, trầm uất của tâm hồn đang dâng ngập trong ánh mắt u buồn, bờ môi run rẩy, “thu cuối mùa” của Hồ Xuân Hương. Bà đang chờ đợi diều gì? Người phụ nử tài hoa, sắc sảo, thông minh bậc nhất lúc bấy giờ nhưng lại lận đận về đường tình duyên, hai lần sang ngang dều bị đứt gánh giừa đường này, luôn khao khát yêu đương, khát vọng tình yêu luôn cháy bỏng trong con người “Bà chúa thơ Nôm”. “Khát vọng tình yèu” khác với “ước vọng tình yêu”. Ước V Ig chỉ mới à ióc mong, CÒI khát vọng thì đã đạt đến “đỉnh” của sự đam mê cháy bỏng, mạnh liệt, rạo rực hồi trong ngực trẻ”, không có giới hạn. Khát vọng sôi sục vẫn tinh tế, đầy nữ tính. Thế nhưng, khốn nạn thay, đau xót thay, bẽ bàng thay cho Hồ Xuân Hương khi:
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Đời người là hạn hẹp, thời gian là vĩnh hằng, vù trụ thì vô tận… Bánh xe thời gian như bóng câu bên cửa sổ mà con gái thì có thì… Thời gian lặng lẽ trôi, tuổi xuản cùng qua đi mà tình duyên vần không trọn vẹn, hạnh phúc vẫn lở làng. Hạnh phúc giống như một thứ quả ngọt xa xôi, quá tầm tay với của nữ sĩ, nó khiến bà khắc khoải, day dứt không thể níu kéo. vầng trăng trôn cao dường như cũng soi thấu những run rầy, tháng thốt, hoảng hốt trong lòng bà khi chạnh lòng nghĩ về thán phận lẻ loi, hẩm hiu của mình. Giọng điệu ngôn ngữ, hình ảnh của câu thơ giông như một tiếng nấc nghẹn ngào, chua xót, thổn thức đến trào nước mắt, phải cắn chặt môi dến bật máu tươi mới ngăn tiếng khóc thành lời! Thử hỏi, dọc đến đây ai mà không xúc động, thương xót, cám cảnh thay cho Hồ Xuân Hương? Và tự hỏi phải chăng “khách má hồng” luôn gặp nhiều nồi truân chuyên? Phải chăng “bạc mệnh” là lời chung cho những người phụ nữ tài hoa khi xưa?
Ông vua thơ tình Xuân Diệu cho rằng:
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu.
Với Hồ Xuân Hương, cảm xúc đã tự chọn được ngôn ngừ riêng trong thơ của bà. Hậu sinh chúng ta nhìn thấy bà vĩ dại ở chỗ; sử dụng Tiếng Việt một cách tài hoa tinh tế, đã phát huy cao độ khả năng biểu cảm của ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm) một cách khéo léo tài tình mà trước đó đến cả sau này ít có ai sánh kịp.
Ở câu thơ thứ ba, mầm mông phản kháng, vùng lẽn dà bắt đầu dược nhen nhóm khi bà trích dẩn mình “nốc rượu ào ào” giữa đêm khuya. Hình ánh vốn dĩ dành cho mày râu, đến những nho sĩ “dài lưng tốn vải” còn chưa dám thử chứ đừng nói gì đến phận gái dịu dàng, thùy mị, doan trang, thướt tha nơi khuê phòng như Hồ Xuân Hương.
“Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống dà tận dầy”. “Con giun xéo mãi cũng quằn”. Tâm trạng bức bô”i, bị đè nén cũng sẽ bị bùng nổ, cũng gióng như trái bóng bay quá căng thì sẽ “Bùm!”.. Bức tranh thiên nhiên dưới bàn tay tài hoa, góc nhìn mới lạ, mô tả bằng những từ rất “dắt”, hiện lên giông như một con sóng lớn chuyến dộng mạnh mẽ, khuấy đạp, chao dảo mành liệt. Cái buồn không có đất sông lâu trong con người có bản tính vui nhộn, lạc quan, yêu đời như HỒ Xuân Hương. Sự phẩn uất của thiên nhiên cùng là sự phần uất của tâm trạng “không thể sống mài như vậy được!”. Sự phẫn uâ’t, tinh thần dấu tranh, vùng lên, phản kháng củng đà nổi sóng trong con người bà. Câu thơ hào sảng, khí phách, táo bạo, mảnh liệt, dữ dội, mang màu sắc “tự do chủ nghĩa, điểm thêm một chút “phô” xá” như chính con người thật của bà. Con người khi dã trải qua biết bao đau đớn, khố nhục, nếm đú mọi diều bi ai trần thế nhưng không vì t’ ế mà tâm * ồ chai sạn, sức ìống mành liệt, niềm lạc quan yêu đời vẫn âm ỉ cháy sục sôi trong lòng bà, chờ thời cơ bùng nổ:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Bằng hai câu thơ trên, Hồ Xuân Hương đả phá vờ nghi thức hàn lâm, đạo mạo trong văn chương lúc bấy giờ. Câu thơ mang sắc thái táo bạo, dừ dội, pha chút chân thành, khỏng hề giấu diếm khát vọng tình yêu cúa mình. Bà là một tiêng thơ – có thể nói là sớm nhất của một người phụ nữ dã chủ động yêu và đòi quyền được yêu (Ờ thời phong kiến nam quyền xưa, vốn khinh rẻ phụ nữ. Người ta quen nhìn phụ nữ dưới vai trò yếu đuôi, thụ động).
Phân tích bài thơ tự tình II
Khi tự mình lèn gân, hết mình chống dờ, vận dụng lí trí, nghị lực để vực mình đứng dậy, Hồ Xuân Hương lại chùng xuống khi đối diện với chính mình. Bà lại ngao ngán, chấp nhận số phận trong cơn phẩn uất cực diểm. Bà lại bật lên tiếng thờ dài ai oán “Một mình mình lại thương mình xót xa” trong căn phòng không, chiếc gối lè loi một mình. Câu thơ bất lực, chứa dầy nét thương thân:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!
Giọng thơ uất ức, hờn tủi cùng “góp phần” tạo thèm sự tù túng, bức bối, ngột ngạt với bao cay đắng, chán chường của nữ sì. Thế nhưng, càng đau khô, càng bế tắc, cô đơn thì Hồ Xuân Hương càng khao khát sẻ chia, khao khát hanh phúc, khao khát yêu và được yòu. vẫn chờ đợi tình yêu dich thực băng cả sự trinh bạch của tâm hồn: cái mà khồng một sự tàn phá, va dập nào của thời gian chạm tới dược.
Sự tự tin, cá tính mạnh mẽ, sức sống mãnh Uột dường như dà bén rễ trong tâm hồn bà. Sóng gió, bão táp khắc nghiệt của đường dời không làm nó lụi tàn mà dường như tiếp thêm dộng lực dể nó ra hoa, kết trái, tươi tốt thêm.
Tâm sự của bà cùng là nỗi lòng, tiếng nói của người phụ nữ lúc bấy giờ. Bà thấu hiểu nỗi niềm tiếng lòng của chị em phụ nữ từ xưa và dến cả bây giờ. Khao khát yôu đương, khao khát vươn lên, khao khát sống hạnh phúc là mong muốn cùa mọi phụ nữ. Một nhà thơ chân chính là phải đi sâu vào hiện thực dể nghe tâm hồn của thời đại. Hồ Xuân Hương đà thực hiện diều này rất thành công. Đề tài về cuộc sông, thân phận, khát vọng ve đẹp cúa người phụ nử là sợi chi đỏ xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm cùa bà. Tiếng nói, hành dộng của bà đả góp phần mở đường cho phong trào giải phóng phụ nữ. Với tài năng dộc dáo như vậy, không phải ngầu nhiên mà Hoàng Trung Thông đà viết:
Ai thẹn thì cúi đầu,
Ai thích thi nghĩ lâu.
“Bà chúa thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương đã chiêm một vị trí quan trọng trên thi đàn Việt Nam và trong lòng bạn đọc yêu thơ hôm nay và mãi mãi về sau.