Phân tích bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng (mẫu 2)
Đề bài: Phân tích tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng
Bài làm
1. Hồi thứ năm, hồi cuối bi kịch lịch sử Vũ Như Tô xoay quanh một sự kiện chính : Sự kiện đốt phá Cửu Trùng Đài, bắt, giết những người đã sáng tạo ra nó, chôn vùi họ trong tro tàn Cửu Trùng Đài và trong tro tàn của lịch sử một triều đại mục ruỗng của hôn quan, bạo chúa. Bao trùm hồi kịch là một nỗi đau và một niềm hoang mang lớn thấm đượm một ý vị triết mĩ sâu xa.
Hành động, sự kiện chính của hồi kịch này có thể tóm tắt như sau :
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ xây đài với Vũ Như Tô và bạo chúa Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản cầm đầu một phe cánh đối nghịch trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản.
Tinh hình càng lúc càng nguy kịch. Lê Tương Dực bị giết ; đại thần, hoàng hậu, cung nữ của y cũng vạ lây ; Đan Thiềm bị bắt,… Kinh thành điên đảo.
Khi quân khởi loạn đốt Cửu Trùng Đài thành tro, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ. Chàng trơ trọi, đau đớn vĩnh việt Cửu Trùng Đài rồi bình thản ra pháp trường.
Ở hồi này, mâu thuẫn, xung đột kịch đã được đẩy lên đến đỉnh điểm. Hai mâu thuẫn cơ bản của vở kịch đã hoà vào nhau, “cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hoà và căng thẳng đến cực độ mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật”. Và, nếu như trong những hồi đầu mâu thuẫn thứ hai chỉ tiềm ẩn, có vẻ mờ nhạt thấp thoáng đằng sau mâu thuẫn thứ nhất, thì giờ đây, nó hầu như đã nhập hoà làm một với mâu thuẫn thứ nhất. Nó hầu như “không thể giải quyết” và, mọi khắc phục mâu thuẫn đều dẫn đến “sự diệt vong những giá trị quan trọng”. Những giá trị quan trọng ấy là Cửu Trùng Đài và những người đã dày công sáng tạo nên nó : Trớ trêu thay, gần cuối vở kịch, những người dân nổi loạn (trong đó có những người thợ xây đài, vốn trước đây nặng ân nghĩa với Vũ Như Tô) thậm chí, hầu như đã không mấy quan tâm đến việc trả thù bạo chúa Lê Tương Dực – việc này đã có phe cánh Trịnh Duy Sản đảm nhiệm – mà chỉ mải mê đốt phá Cửu Trùng Đài và chăm chăm truy diệt Vũ Như Tô, truy diệt người cung nữ “đồng bệnh” với ông là Đan Thiềm!
Tính đa nghĩa, thâm trầm, giàu sắc thái triết mĩ của vở kịch liên quan nhiều đến các biểu tượng mà tác giả đã dụng công tạo ra, hướng độc giả ít nhiều đến các suy tư về tự do, quyền lực, sắc, tài, tình, nhân dân, cái Thiện, cái Ác, cái Đẹp,… Trong đó hình tượng đa nghĩa mang tính biểu tượng nghệ thuật cần phải nói đến trước tiên là Cửu Trùng Đài.
Một mặt, Cửu Trùng Đài – như cái tên của nó – là một công trình kiến trúc mà tầm vóc không thể chỉ tính đếm bằng lượng gỗ cây, đá khối, cho dù đó là những con số nghe qua cũng đã đủ kinh hoàng (“hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô ngần”,”hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”). Tầm vóc của nó, phải hình dung bằng chính tầm vóc ý tưởng, khát vọng đầy ngạo nghễ của người sẽ tạo ra nó : một công trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất cả những kì quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành,… và những công trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng ; lại là một kì quan bền vững, bất diệt. Xây công trình, tác giả của nó không thèm “tranh tinh xảo” với người, chỉ “tranh tinh xảo với hoá công” ! Đó là hiện thân của cái Đẹp, không phải cái Đẹp nói chung mà là cái Đẹp “siêu đẳng”. Với những nhà kiến trúc tài cao, đây là dịp thi thố tài năng, thực hiện “mộng lớn”, khẳng định thiên tài kì vĩ của mình.
Mặt khác, đài Cửu Trùng còn là hiện thân cho cái Đẹp xa hoa. Xây nên kì quan ấy, tất nhiên cực kì tốn kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng tiền của ngân khố quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu nữa. Đánh đổi bằng tất cả những thứ đó, đài Cửu Trùng được xây lên với mục đích gì ? Chưa biết trong tương lai thế nào, còn trước mắt, nhất là nhìn từ lợi ích của hôn quân Lê Tương Dực, thì “xây đài” chi là để “cho vua chơi” ! Nhưng ví thử, không gặp một ông vua hưởng thụ xa hoa như Lê Tương Dực, thì chưa chắc và cũng chưa biết đến bao giờ Vũ Như Tô được thi thố tài năng ? Cái oái oăm là ở đó, và mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô cũng là ở đó.
Theo đó, ý nghĩa biểu tượng thâm trầm của Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Cho dù đó không phải là một nhân vật bi kịch, song người đọc có thể từ hình tượng này gạch các dấu gạch nối về nhiều phía, xác lập quan hệ với nhiều nhân vật trong vở kịch để tìm hiểu ý nghĩa phong phú của nó : Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,…
Trước lúc vỡ kịch hạ màn, sau khi dân chúng làm cái việc họ tất phải làm (đốt phá Cửu Trùng Đài thành tro bụi), Vũ Như Tô và Đan Thiềm tột cùng đau đớn, tiếc nuối “vĩnh biệt” Cửu Trùng Đài, và vĩnh biệt nhau (“ĐAN THIỀM : – Đài lớn tan tành ! Ông Cả ơi Ị Xin cùng ông vĩnh biệt!; VŨ NHƯ TÔ : – Đan Thiềm, xin cùng bà vĩnh biệt !”), thì cái tên Cửu Trùng Đài, trong một sắc thái chua chát mỉa mai, còn toát ra một ý nghĩa khác : Cửu Trùng Đài là “mộng lớn”, là biểu tượng cho sự bền vững, trường tồn, nhưng, cúi Đẹp và sự tồn tại của nó hoá ra lại chỉ ngắn ngủi và mong manh như một giấc chiêm bao !
Đó hẳn cũng là lí do để Nguyễn Huy Tưởng chọn cái tác phẩm thiên tài của người nghệ sĩ trong vở bi kịch này là một công trình kiến trúc kì vĩ (chứ không phải là một pho tượng, bức tranh, bản nhạc, cuốn tiểu thuyết,…), và người nghệ sĩ – tác giả của tác phẩm ấy, phải là một kiến trúc sư (chứ không phải một nhà điêu khắc, hoạ sĩ, nhạc sĩ, hay một nhà văn). Sự lựa chọn của Nguyễn Huy Tưởng tất nhiên không bao hàm một cái nhìn thứ bậc, một thái độ trọng khinh, mà chỉ đơn giản là vì sự lựa chọn này giúp ông triển khai được nhiều mối quan hệ và tạo cho biểu tượng nghệ thuật trở nên lung linh, lấp lánh nhiều tầng ý nghĩa.
2. Trong hồi kịch này, Vũ Như Tô – Đan Thiềm, cũng là cặp hình tượng bi kịch mang tính biểu tượng nghệ thuật cao.
Vũ Như Tô hiện lên như một tính cách bi kịch, vừa bướng bỉnh vừa mềm yếu vừa kiên định vừa dễ hoang mang.
Nhân vật bi kịch thường mang trong mình không chỉ những say mê khát vọng lớn lao mà còn mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy của chính nó. Nhưng, không bao giờ khuất phục hoàn cảnh, nhân vật bi kịch bướng bỉnh vùng lên chống lại và thách thức số phận.
Tính cách nổi bật nhất của Vũ Như Tô : là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, hiện thân cho niềm khát khao và đam mê sáng tạo cái Đẹp. Nhưng trong một hoàn cánh cụ thể cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm, nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí, “cao cả và đẫm máu” như một “bông hoa ác”. Vì thế, đi tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Chàng trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Cái tài ba được nói đến chủ yếu ở các hồi, lớp trước thông qua hành động của anh và nhất là lời của các nhân vật khác nói về anh : thiên tài “ngàn năm chưa dể có một”. Nghệ sĩ ấy có thể “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Anh “chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hoá như cảnh hoá công”. Nhưng chính vì quá đam mê khao khát đắm chìm trong sáng tạo mà Vũ Như Tô càng dể xa rời thực tế đời sống ; càng sáng suốt trong sáng tạo nghệ thuật thì càng mê muội trong những toan tính âu lo đời thường. Hồi thứ V không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ duy nhất có Đan Thiềm nhắc đến), mà đặt Vũ Như Tô vào việc tìm kiếm một câu trả lời : Xây đài Cửu Trùng là đúng hay sai ? Có công hay có tội ? Nhưng Vũ Như Tô không trả lời được thoả đáng câu hỏi đó bởi chàng chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, trên lập trường cái Đẹp mà không đứng trên lập trường cái Thiện. Hành động của chàng không hướng đến sự hoà giải mà thách thức và chấp nhận sự huỷ diệt. Vũ Như Tô đã từng “tranh tinh xáo với hoá công”, giờ lại bướng bỉnh tranh phải – trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh này thể hiện qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Nếu Vũ Như Tô là người đam mê cái Đẹp và khát khao sáng tạo cái Đẹp thì tính cách của Đan Thiềm là tính cách của người đam mê cái Tài, cụ thể là tài sáng tạo nên cái Đẹp. “Bệnh Đan Thiềm”, như chữ của Nguyễn Huy Tưởng, là bệnh mê đắm người tài hoa, hay như chữ của Nguyễn Tuân, bệnh của kẻ “biệt nhỡn liên tài”. Nhưng cái tài ở đây không phải cái tài nói chung mà là cái tài siêu việt, siêu đẳng. Đan Thiềm có thể quên mình để khích lệ, bảo vệ cái tài ấy, nhưng nàng luôn tính táo, sáng suốt trong mọi trường hợp vì nàng hiểu người, hiểu đời hơn, thức thời, mềm mại và dễ thích ứng với hoàn cảnh hơn Vũ Như Tô. Hai lần nàng khuyên nhủ Vũ Như Tô đều hết sức sáng suốt, nhưng lần thứ nhất lời khuyên có hiệu lực, lần thứ hai thì không và bi kịch của Đan Thiềm chủ yếu gắn với thất bại này. Tất nhiên nàng chỉ đau xót và tiếc thay cho Vũ Như Tô chứ không oán trách chàng. Giữa nàng với người đồng bệnh Vũ Như Tô vẫn có một khoảng cách không thể vượt qua. Tâm lí của Đan Thiềm ở hồi V tập trung diễn biến theo sự thành bại của lời – cũng là hành động – khuyên can này.
Ở hồi cuối, cả Vũ Như Tỏ và Đan Thiềm đều lâm vào trạng thái khủng hoảng với một nỗi đau chung : sự “vỡ mộng” thê thảm. Nhưng diễn biến tâm trạng của họ có chiều hướng vận động và biểu hiện khác nhau.
Đan Thiềm cũng đau đớn nhận ra thất bại của giấc “mộng lớn” xây Cửu Trùng Đài, nhưng nhạy bén, sớm sủa, kịp thời hơn Vũ Như Tô. Tâm trí của nàng giờ đây không còn hướng vào thành bại của việc xây Cửu Trùng Đài mà hướng vào sự sống còn của Vũ Như Tô, người nghệ sĩ “tài trời” nghìn năm có một. Nàng khẩn khoản khuyên Vũ đi trốn, và thấy lời khuyên của mình vô hiệu thì hốt hoảng, đau đớn tột cùng. Trong mấy lớp liên tiếp của hồi V, Đan Thiềm đã năm lần bảy lượt khuyên Vũ Như Tô “trốn đi” (15 lần khuyên trốn, điệp khúc trốn đi, lánh đi, chạy đi vang lên đến 14 lần ; 4 lần nàng van lạy phe nổi loạn “tha cho ông Cả”). Điệu bộ nàng “hớt hơ hớt hải” “mặt cắt không còn một giọt máu”. Giọng nàng “thở hổn hển”, đứt đoạn trong âm vang kinh hoàng điên đảo của bạo loạn chốn cung đình, trong khi mà chính nàng bị xỉ vả bắt bớ rất bất công, oan nghiệt. Lời nói của nàng khẩn khoản như đẫm máu và nước mắt (“ĐAN THIÊM : – Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài…”). Đến lúc nhận ra đến cả việc đổi mạng sống của mình để cứu Vũ Như Tô cũng không được nữa thì Đan Thiềm đành buông lời vĩnh biệt tất cả. (Nàng nói : “Đài lớn tan tành ! Ông Cả ơi ! Xin cùng ông vĩnh biệt !”, mà không nói : “Vĩnh biệt ông Cả !”). Đó cũng là lời vĩnh biệt mãi mãi Cửu Trùng Đài, vĩnh biệt một “giấc mộng lớn” trong máu và nước mắt.
Vũ Như Tô, trái lại, vẫn không thể thoát ra khỏi trạng thái mơ màng, ảo vọng của chính mình. Chàng không thể tin rằng cái việc cao cả mình làm lại có thể bị xem là tội ác, cũng như không thể tin sự quang minh chính đại của mình lại bị rẻ rúng, nghi ngờ. Sự “vỡ mộng” của Vũ Như Tô vì thế đau đớn, kinh hoàng gấp bội so với Đan Thiềm. Nỗi đau ấy bộc lộ thành tiếng kêu bi thiết và âm điệu não nùng, khắc khoải của nó thành âm hưởng chủ đạo bao trùm đoạn kết đã đành mà nó còn thành một thứ chủ âm dội ngược lên toàn bộ những phần trước của vở bi kịch. “Ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài !”, đó cũng là những tiếng kêu cuối cùng của Vũ Như Tô khi ngọn lửa oan nghiệt đang bùng bùng thiêu trụi Cửu Trùng Đài, trước khi tác giả của nó bị dẫn ra pháp trường. Trong tiếng kêu ấy “mộng lớn”, “Đan Thiềm”, “Cửu Trùng Đài” đã được Vũ Như Tô đặt liên kết với nhau, nỗi đau mất mát như nhập hoà làm một, thành một nỗi đau bi tráng tột cùng.
Như vậy diễn biến tâm trạng của hai nhân vật ở hồi cuối này góp phần thể hiện tính cách bi kịch ở mỏi người cũng như những gì được xem là “đồng bệnh”, “tri âm” (hay đồng điệu) ở họ, đồng thời qua dó, góp phần khơi sâu hơn chủ đề của tác phẩm.
Chứng “đồng bệnh” ở Đan Thiềm và Vũ Như Tô được chính hai người nói ra, cả khi tự nói về mình – “đôi mắt thâm quầng này do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét” – lẫn khi nói về Vũ Như Tô – “Tài làm luỵ ông, cũng như nhan sắc người phụ nữ… tài bao nhiêu, luỵ bấy nhiêu”. Chứng “đồng bệnh” ấy, thực chất là sự đồng điệu trong mộng ước, đồng điệu trong nỗi đau… xuất phát từ sự tự ý thức sâu xa về bi kịch của tài và sắc (hay là sự bạc bẽo của thân phận nghệ sĩ và giai nhân, được thâu tóm cô đúc trong chữ luỵ).
3. Bằng một ngồn ngữ kịch có tính tổng hợp rất cao, nhất là trong hồi cuối Vũ Như Tô, nhà văn đã đồng thời khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt hành động, xung đột kịch rất thành công, tạo nên một bức tranh đời sống bi kịch rất hoành tráng trong nhịp điệu bão tố của nó.
Nhịp diệu được tạo ra thông qua nhịp điệu của lời nói – hành động (nhất là qua khẩu khí, nhịp diệu, sắc thái lời nói – hành dộng của Đan Thiềm – Vũ Như Tô đối đáp với nhau và với phe đối nghịch ; qua lời nói – hành động của những người khác trong vai trò đưa tin, nhịp điệu “ra”, “vào” của các nhân vật đầu và cuối mỗi lớp – các lớp đều ngắn, có những lớp rất ngắn : chỉ dăm ba lượt thoại nhỏ ; những tiếng reo, tiếng thét, tiếng dộng dội từ hậu trường phản ánh cục diện, tình hình nguy cấp, điên đảo trong các lời chú thích nghệ thuật hàm súc của tác giả).
Với một ngôn ngữ có tính tổng hợp (kể, miêu tả, bộc lộ,…) và tính hành động rất cao như vậy, người ta dễ dàng hình dung cả một không gian bạo lực kinh hoàng trong một nhịp điệu chóng mặt : Lê Tương Dực bị Ngô Hạch giết chết, Hoàng Hậu nhảy vào lửa tự vẫn (qua lời kể của Lê Trung Mại) ; Nguyễn Vũ tự tử bằng dao (ngay trên sân khấu), Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt cổ ngay tại chỗ ; Vũ Như Tô ra pháp trường. Rồi tiếng nhiếc móc, chửi rũa, la ó, than khóc, máu, nước mắt,… tất cả hừng hực như trên một cái chảo dầu sôi khổng lổ.
Nhưng đây lại là một bi kịch lịch sử. Viết một vở kịch lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng tất nhiên dựa trên các sử liệu : sự kiện, nhân vật lịch sử, bối cảnh lịch sử. Điều quan trọng là tác giả khai thác, vận dụng các sử liệu ấy như thế nào cho phù hợp với yêu cầu của bi kịch. Và lịch sử có lô gích, quy luật của nó, tàn khốc, lạnh lùng. Cái lõi lịch sử được nhà văn khai thác ở đây là câu chuyện Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực (theo như sách Đại Việt sử kí và Việt sử thông giám cương mục ghi lại). Đài xây dang dở, người thợ tài hoa Vũ Như Tô đã phải chịu cái chết oan khốc. Ở đây, để góp phần làm nên cái khung cảnh và không khí bi tráng của lịch sử, tác giả đã đặt hành động kịch vào trong “một cung cấm”, nhiều nhân vật kịch là những nhân vật lịch sử. Nhiều tên đất, tên người gắn với triều Lê… Đúng như lời chú thích sân khấu của tác giả : Sự việc trong vở kịch xảy ra ở Thăng Long trong khoảng thời gian từ năm 1516 đến năm 1517, dưới triều Lê Tương Dực.
4. Thực tại được phản ánh trong bi kịch theo lối cô đặc các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hoà và căng thẳng đến cực độ mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật. Tác phẩm thường đặt độc giả trước những câu hỏi phức tạp, hóc búa, nhức nhối của cuộc sống.
Trong lời Đề tựa viết một năm sau khi viết xong vở kịch, chính Nguyễn Huy Tưởng đã công khai bày tỏ nỗi băn khoăn của mình : “Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc ? Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Nhu Tô phải […]. Than ôi, Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải ? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”.
Cho đến khi bi kịch hạ màn, người xem vẫn chưa thấy đâu câu trả lời dứt khoát của tác giả. Nói đúng hơn ông nhường câu trả lời cho người đọc, người xem. Mâu thuẫn và tính không dứt khoát trong cách giải quyết mâu thuẫn này được thể hiện tập trung trong hồi cuối của vở kịch. Cửu Trùng Đài sụp đổ và bị đốt cháy, nhân dân trước sau vẫn không hiểu gì việc sáng tạo của nghệ sĩ, không hiểu nổi Đan Thiểm, Vũ Như Tô cũng như “mộng lớn” của hai nhân vật hiện thân cho tài sắc này. Về phía khác, Đan Thiềm không cứu được Vũ Như Tô và họ Vũ vẫn không thể, không bao giờ hiểu được việc làm của quần chúng và của phe cánh nổi loạn.
Mâu thuẫn mà vở bi kịch nêu lên thuộc loại mâu thuẫn không bao giờ và không ai giải quyết cho thật dứt khoát, ổn thoả được, nhất là trong thời đại Vũ Như Tô. Mâu thuẫn này may ra có thể giải quyết được phần nào thoả đáng khi mà đời sống vật chất của nhãn dân thật bình ổn, đời sống tinh thần, nhu cầu về cái Đẹp trong xã hội được nâng cao lên rõ rệt.
Mặc dầu vậy, chủ đề và định hướng tư tưởng của vớ kịch vẫn được phát triển tương đối sáng tỏ.
Một mặt, trên quan điểm nhân dân, vờ kịch lên án bạo chúa, tham quan, đồng tình với việc dân chúng nổi dậy trừ diệt chúng ; nhưng mặt khác, trên tinh thần nhân văn, vở kịch đã ca ngợi những nhân cách nghệ sĩ chân chính và tài hoa như Vũ Như Tô, những lấm lòng yêu quý nghệ thuật đến mức quên mình như Đan Thiềm.
Đây là chủ đề được thể hiện chủ yếu qua mâu thuẫn thứ hai của vở kịch : mâu thuẫn giữa niềm khát khao hiến tỉâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực của đời sống nhân dân.