Bình giảng Ai đã đặt tên cho dòng sông
Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu:
Chứng minh “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực
Hướng dẫn bình giảng:
Tôi vốn rất say mê văn Nguyễn Tuân, nhất là những trang bút ký giàu tri thức của một trí tuệ uyên thâm, một tài năng ngôn ngữ trác việt và một tâm hồn nghệ sỹ tài hoa. Vì vậy những nhận xét của nhà văn dành cho đồng nghiệp cũng rất có uy tín đối với tôi.
Từ nhận xét của ông: “ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa’‘ tôi đã tìm đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông” và với một niềm ngưỡng mộ Huế vốn đã có sẵn trong mình tôi dã tìm thấy sự đồng cảm trong những trang bút ký đầy chất thơ, mang đậm hồn xứ sở này. Thiên nhiên Huế với núi Ngự sông Hương hữu tình là xứ sở của chùa chiền lăng tẩm, của những nét đẹp văn hoá cổ truyền. Là thành phố du lịch nhưng ngày nay Huế vẫn giữ được vẻ thâm trầm thanh tịnh, mà không một thành phố nào ở nước ta có được. Một phần làm nên vẻ đẹp ấy chính là dòng sông Hương. Con sông đã đi vào thi ca vơi vẻ quyến rũ lạ kỳ:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”
Dòng sông Hương đã là nguồn cảm hứng của nhiều nghệ sỹ và dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành một con người, một người con gái đẹp có tâm hồn, có cá tính, dịu dàng một vẻ sang trọng, đằm thắm một vẻ đẹp văn hoá. Đằm sâu trong lòng sông là một chiều dài văn hoá, lịch sử.
Cũng giống mạch văn mà Nguyễn Tuân đã viết về sông Đà, miêu tả con sông dọc theo dòng chảy của nó, nhưng với cá tính dịu dàng của người con xứ Huế, cách viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gợi cho người đọc một cảm giác khác, cảm giác của một cái gì đó dịu nhẹ cứ len lỏi miên man rồi từ từ thấm vào hồn người, làm trỗi dậy một cách trầm tĩnh cái tình yêu mê man, say đắm đối với dòng sông mang nét đẹp văn hoá xứ sở. Nếu dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân mang vẻ hung bạo, dữ dội của những con thác nơi đại ngàn, dù nơi nước lặng vẫn mang đầy vẻ ban sơ, hoang dại ”như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” thì dòng sông Hương lại mang vẻ đẹp của người con gái cũng dữ dằn nơi rừng già nhưng khi vào lòng thành phố thì mềm mại, quý phái và quyến rũ như một cô gái quý tộc biết ý tứ, biết suy tư và luôn tràn đầy tình cảm với thành phố quê hương. Sông Hương đẹp bởi Huế và cũng mang đến cho Huế một vẻ đẹp riêng.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách viết ký của HPNT, để hiểu hết được vẻ đẹp của tác phẩm cần có một vốn hiểu biết nhất định về thể loại này. Ký là một thuật ngữ dùng để gọi tên một thể loại văn học có sự đan xen khá đặc biệt của trữ tình và tự sự, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vốn tri thức phong phú và nguồn cảm xúc dạt dào, là kết quả của tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật. Vì vậy thưởng thức và thấy được sức hấp dẫn của ký không phải là điều đơn giản, nhất là với ngưng tác phẩm xuất sắc. Người viết ký giỏi là người là người có khả năng tổng hợp tri thức, có vốn sống phong phú, có khả năng quan sát và có năng lực thẩm mỹ. Với những phẩm chất ấy HPNT đã thổi vào cái vẻ lững lờ, trầm tĩnh của sông Hương một sức sống, một tâm hồn mang đậm hồn xứ sở quê hương.
Việt Nam là đất nước có sông ngòi dày đặc, mỗi người Việt Nam đều được sinh ra và lớn lên bên một dòng sông như lời bài hát: “Trong ta, ai cũng có một dòng sông” hay lời thơ của một nhà thơ trẻ:
“Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời bên một dòng sông
…Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông”
Bút ký này là kết quả mối lương duyên giữa một tâm hồn nghệ sỹ giàu cảm xúc, tinh tế có tình yêu xứ sở tha thiết và một trí tuệ gnhiên cứu minh mẫn, uyên thâm. Đó là bản trường ca đầy chất thơ tạo cho sông Hương và xứ Huế một tâm hồn mang tinh hoa văn hoá đất Kinh kỳ xưa. Sự mạch lạc của tư duy nghiên cứu thể hiện ở cách thể hiện rất rõ ràng nhưng hiểu biết về nguồn gốc, đặc điểm địa lý, lịch sử, dòng chảy của dòng sông với một giọng điệu trữ tình, giàu hình ảnh, lối diễn đạt đằm thắm dịu dàng tràn đầy xúc cảm. Lối viết ấy tạo cho người đọc cảm giác như đang được tâm tình trên con thuyền thả trôi theo dòng chảy lặng lờ của dòng sông mà vừa ngắm vừa nghe ai đó thủ thỉ kể về dòng sông huyền thoại này. Cái điệu chảy lững lờ của dòng sông đã được tác giả thổi vào đó một cái hồn khiến nó trở thành người con gái dịu dàng, mỗi bước đi là một niềm vương vấn với quê hương, với thành phố Huế nên thơ, HPNTđã kết hợp một cách điêu luyện tư duy nghiên cứu và tư duy nghệ thuật để giải thích nguyên nhân cái điệu chảy chậm chạm của dòng sông mà tác giả gọi “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế “, tác giả đã giải thích bằng cả hai cách: cách của người nghệ sĩ, cách của nhà địa lý.
Bắt nguồn từ rừng già Trường sơn, sông Hương cũng từng gào thét hung dữ cùng gió ngàn bởi cái địa thế hiểm trở của núi rừng. Nhưng khi vào lòng thành phố nó lại chảy thật chậm do đặc diểm cấu tạo của dòng chảy, ở đây dòng sông chia làm nhiều nhánh, theo những nhánh sông dào mang nước về thành phố và “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hơn lưu tốc của dòng sông, khiến cho sông Hương . . . trôi thật chậm . . .”. Dưới con mắt của người nghệ sĩ dòng chảy của Hương Giang lại được miêu tả thật hấp dẫn với nhiều cách so sánh, những từ ngữ được sử dụng rất đắc địa, giàu hình ảnh, màu sắc và hình khối tạo nên một dòng Hương Giang thật đẹp, thật nên thơ và như một con người đầy xúc cảm chứa chan tình yêu với cố đô Huế giàu truyền thống văn hoá. Sông Hương, dưới ngòi bút của HPNT, không còn là một dòng chảy mà là cả một nền văn hoá, cả một chiều dài lịch sử anh hùng và một chiều sâu tâm hồn cao quý. Người nghệ sĩ cũng lần lượt theo bước dòng sông từ thượng nguồn cho đến khi nó tạm biệt thành phố Huế thân yêu để ra cửa Thuận An và hoà mình ra biển. Và người nghệ sỹ ấy đã dừng lại rất lâu, giống như dòng sông, khi đi và lòng thành phố.
Giữa núi rừng hùng vĩ của rừng Trường Sơn, sông Hương đã là “bản trường ca của rừng già. . .” và cũng có lúc trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng, vẻ đẹp của sông Hương nơi đại ngàn thật gần với vẻ dữ dằn mà cũng dịu dàng một cách hoang dại của sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân “sông Đà hung bạo và trữ tình, . . sông Đà tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trờiTây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuồn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” ( Nguyễn Tuân – Người lái đò sông Đà). Cái dữ dội của sông Hương nơi đại ngàn đã được tác giả chọn lựa một hình ảnh so sánh thật sống động, gợi cảm và đầy màu sắc văn hoá “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn trong sáng”. Dưới lăng kính của người nghệ sĩ, sông Hương đã trở thành một con người, một người con gái có đầy đủ tâm hồn, tính cách, lòng yêu thương rừng già “ đã chế ngự bản năng của người con gái” để “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”. Có thể thấy ngay ở trang đầu tiên dành cho sông Hương, tác giả đã sáng tạo một loạt hình ảnh độc đáo để gợi tả vẻ đẹp mang màu sắc văn hoá của dòng sông. Từ đó tạo cảm giác sông Hương khi vào lòng thành phố đã ộng thay đổi mình, kiềm chế mình để phù hợp với vẻ mộng mơ, thâm trầm và cổ kính của cố đô. Sông Hương như “người con gái đẹp ngủ mơ màng” được đánh thức để hoà mình cùng Huế, nó duyên dáng uốn mình và bước di chậm chạp, thật quí phái uốn mình theo những đường cong thật mềm, “như một cuộc tìm kiếm có ý thức” . . . Bước chuẩn bị để dòng sông đi vào lòng thành phố đã được tác giả miêu tả rất kỹ càng với một cảm xúc ở độ cao trào, một loạt hình ảnh so sánh được sử dụng để khắc hoạ vẻ đẹp của dòng sông một cách hoàn mĩ. Đến chân đồi Thiên Mụ thì Hương Giang cùng tiếng chuông chùa cùng với sự thâm trầm uy nghiêm của những lăng tẩm của vua chúa Nguyễn đã tạo cho sông Hương một vẻ đẹp văn hoá đắc biệt mà không một dòng sông nào của Việt nam có được. Vẻ đẹp ấy được tác giả chọn tả bằng một câu văn dài như ngân lên trong hồn người đọc, tạo một dư âm, một ấn tượng không thể phai mờ. “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga từ bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Một trong những nét độc đáo rất riêng, rất Huế trong cách tả của HPNT có lẽ chính là cách tả những khúc uốn lượn của dòng sông với một hệ thống các hình ảnh so sánh rất mềm, rất duyên. Đó là cách so sánh dùng những cảm giác phi vật chất để miêu tả sự vật. Có chút gì đó gần với Thạch Lam, Vũ Bằng, song vẫn có nét điệu đàng của Huế. Dòng sông khi “uốn mình theo những đường cong thật mềm” khi lại “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn…ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” và lúc lại “mềm như tấm lụa” rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, không chỉ mô tả hình dáng dòng sông bằng những từ ngữ giàu tính hình tượng và rất gợi cảm mà cái đặc biệt tạo nên phong cách ký của HPNT, góp phần tạo nên “bản đại hợp xướng ngôn từ” cho nền văn học dân tộc, chính là sự sáng tạo nên những phương thức so sánh rất đắc địa, bất ngờ và đầy chất thơ, thể hiện đỉnh cao cảm xúc trữ tình của tác giả như “ sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ … đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” hay “trăm nghìn ánh hoa đăng bềnh bồng. . .qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của những nỗi lòng”.
Với những cách so sánh độc đáo sống động ấy sông Hương đã thành một con người, một người con gái đầy tình cảm, khi xa dần thành phố đến cồn Huế dòng sông có đoạn chảy vòng lại và người nghệ sĩ trong HPNT đã thấy sự “lưu luyến” của nó và như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt…để gặp lại thành phố, và được tác giả gọi là “nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Thật bât ngờ khi một lần nữa tác giả lại tin tưởng sự gắn bó của sông Hương và xứ Huế với mối tình son sắt Kim Trọng – Thúy Kiều. Rồi tâm hồn người nghệ sĩ ấy đã trở lại sự minh mẫn của tư duy khoa học để khẳng định “ tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mẫi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đây là điểm mấu chốt, trực tiếp thể hiện nội dung tư tưởng cơ bản của bút kí. Và dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì sông Hương vẫn luôn hiện lên gống hoặc được ví là “ người con gái dịu dàng của đất nước”. Đó là vẻ đẹp vĩnh cửu của sông Hương, của xứ Huế trong lòng những ai đã từng đến Huế, từng có buổi chiều thả hồn cùng dòng chảy lững lờ của Hương giang.
Sông Hương trong cảm hứng của HPNT không chỉ mang vẻ đẹp thơ mộng của một vùng văn hoá truyền thống, không chỉ dịu dàng một vẻ sơn thuỷ hữu tình mà còn là một dòng sông anh hùng như bao dòng sông khác của quê hương Việt Nam, sông mang trong mình bao điều bí ẩn của lịch sử. Nếu những trang miêu tả dòng chảy của dòng sông là những trang trữ tình nhất thì những trang nói về lịch sử là những trang đáng tự hào nhất. Dòng sông “tươi trẻ và quyến rũ’’, lung linh sắc màu trong những ngày thanh bình lại trở thành người anh hùng sát cánh cùng dân tộc đánh giặc “Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ vinh quang với lịch sử của nó’’.
Tác giả đã lược thuật những thời kỳ lịch sử của dân tộc mà sông Hương đã trải qua một cách đầy tự hào, mỗi trang sử hào hùng của đất nước SH đều có những chiến công, như một chiến binh cùng bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Với lối viết gợi cảm, giàu cảm giàu cảm xúc tự hào với lịch sử quê hương tác giả đã tạo nên những trang viết đầy âm hưởng anh hùng ca, tạo cho sông Hương một phương diện mới trong vẻ đẹp hoàn mỹ của nó. SH không chỉ dịu dàng quý phái trong vẻ đẹp văn hóa cố đô mà còn đầy tự hào trong lịch sử đấu tranh của một dân tộc anh hùng. trong cảm hứng tự hào ấy vẫn không quên những đau thương mà đế quốc đã gây ra cho Huế chỉ bằng một trích dẫn lời một bài báo của người Mỹ. Dòng ông như một nhân chứng sống cùng với những Bạch Đằng, Hồng Hà, Bến Hải, sông Lam, sông Cửu Long…tạo nên bản anh hùng ca bất diệt của núi sông Việt Nam, là chứng minh đầy tự hào cho sự gắn bó son sắt bền chặt giữa thiên nhiên và con người trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc “địa linh nhân kiệt’’ này. Niềm tự hào ấy được thể hiện thật ấn tượng bằng một câu văn đầy sắc màu trữ tình: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc, , khi nghe lời gọi nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường làm một người con gái dịu dàng của đất nước’’.
Có thể thấy tác giả có một lối viết rất độc đáo đầy sáng tạo khi thể hiện cảm xúc về dòng sông mà thực chất là cảm xúc về cố đô Huế. Cảm xúc có những lúc chuyển hướng đột ngột nhưng vẫn liền mạch, uyển chuyển. Từ cảm hứng tự hào chuyển sang niềm say mê “sắc áo cưới Huế ngày xưa’’và như quên dòng sông, tác giả đắm mình trong niềm mê say “màu áo điều lục của những cô dâu trẻ’’và sông Hương lại trở thành cô dâu thực đẹp trong ngày lễ “vu quy’’với “một tấm voan huyền ảo’’ “ẩn giấu gương mặt thực của mình’’
Chỉ với mười trang văn, bằng sự hiểu biết và tình cảm sâu nặng, tình yêu mãnh liệt với Huế nhà văn đã tạo nên một xứ Huế đáng yêu trong vể đẹp của thi ca, của văn hoá. Sức hấp dẫn của bút ký này được tạo nên bởi hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, gợi cảm và một lối diễn đạt ngọt ngào như hương vị của hoa trái cỏ cây xứ Huế. Điều đó đã tạo cho thể ký nói chung và ký HPNT nói riêng mmọt sứ công phá diệu kỳ vào trái tim độc giả. Thường thì tư tưởng chủ đề của ký không khó nắm bắt, nó đễ dàng đến với số đông độc giả. Đến với ký người thưởng thức không chỉ thoả mãn khoái thú thẩm mỹ mà còn có được những khoái thú thuần trí tuệ bởi những tri thức về người thật việc thật, làm nên nét khu biệt của ký với các loại thể văn học khác. Đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông’’người đọc sẽ gặp một người trần thuật có tâm hồn tinh tế và một giọng trần thuật mượt ngọt như dòng nước Hương Giang bốn mùa xanh thẳm. Tác phẩm sẽ tạo cho người đọc một tình yêu Huế thuần khiết và sâu nặngnhư người ta yêu Hà Nội khi đọc văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân.