Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Truyện Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiều
Nguyền Đình Chiểu đã giãi bày tâm huyết của mình về lẽ ghét, tình thương với con người.
Bài làm
Thật dễ tìm thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu những ví dụ để chứng minh ông là một nhà thơ đạo lí (bên cạnh nhà thơ yêu nước). Nhưng ví dụ vào loại tiêu biểu nhất và thường được người ta nhớ trước hết là đoạn thơ bàn về lẽ ghét thương trong Truyện Lục Vân Tiên. Đã bao nhiêu độc giả tìm thấy ở đây một bài học làm người thấm thìa, một tiêu chuẩn khen chê, đánh giá dáng tin cậy đối với các hạng người trong xã hội và đối với mọi hành vi chính tà, thiện ác ứ dời. Đặc biệt, qua đoạn thơ, độc giả có thể thấy rõ tư tưởng vì dân, vì đời của một con người đã được nhìn nhận như là biểu tượng của lương tâm đất nước trong giai doạn lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX.
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương
Đi vào đoạn thơ, điều cơ bản phải tìm hiểu là lẽ ghét thương được trình bày qua lời ông Quán, bao hàm trong đó tương quan biện chứng giữa thương và ghét ; đối tượng cụ thể cùng gốc rễ của thái độ thương ghét ; khả năng tác động của lẽ ghét thương đối với việc giáo dục con người và chấn hưng tình trạng suy đổi của đạo lí trong xã hội,… Nhưng trước hết ta không thể bỏ qua việc tìm hiểu hành trạng ông Quán. Ông là ai mà đạo lí do ông nêu lên được độc giả một thời mặc nhiên xem là chân lí, và đến hôm nay, vẫn còn có ý nghĩa, sức sống nhất dịnh ?
Ông Quán chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện thoáng qua trong Truyện Lục Vân Tiên. Nhưng ấn tượng mà ông để lại là khá sâu đậm. Mới sơ kiến, Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực đã thấy ông là người rất dáng nể trọng, có thể chí giáo cho họ về kinh nghiệm sống ở đời. Với Vương Tử Trực, ông chính là Phật vàng trong chùa rách, là kẻ có tài kinh luân ẩn ngụ ở nơi hèn mọn, tầm thường. Theo lô gích nghệ thuật riêng của loại truyện Nôm xưa vốn phân chia nhân vật ra hai phe chính, tà rõ rệt, một người được các nhân vật anh hùng, nghĩa hiệp như Tiên, Trực khen không tiếc lời hẳn phải thật sự đáng ca ngợi, và lời ông ta do vậy tất yếu phải có giá trị như châm ngôn. Khi đã xác định sẵn vị thế, tư cách như vậy cho ông Quán trong cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có thể thoải mái nhờ ông phát biểu hộ những suy nghĩ của mình xung quanh vấn để đạo lí. Trong trường hợp này và riêng ở khía cạnh này, hoàn toàn có thể xem ông Quán chính là hiện thân của nhà thơ. Lời ông Quán nói thống nhất với lời tác giả, thể hiện trung thành tư tưởng của tác giả. Nhưng tác giả hiện diện qua đoạn thơ không phải với tư cách một cá nhân mà với tư cách người nhân danh đạo lí truyền thống. Thật là điéu tự nhiên khi rất nhiều ví dụ đã được rút ra từ kinh sử, tức là từ những tác phẩm có ý nghĩa thiêng liêng trong thời Nho học thịnh hành. Đây lại là một lí do nữa khiến lời của ông Quán có thêm nhiều trọng lượng, có thể được độc giả tiếp nhận không một chút nghi ngờ.
Bắt đầu lời bàn về lẽ ghét thương của mình, ông Quán nói ra một điều không phải là dễ hiểu, khiến Lục Vân Tiên thấy cần hỏi lại cho rõ. Đó là “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Hay ghét, hay thương là gì ? Tại sao lại cũng là ? Có thể hiếu rằng các cụm từ hay ghét, hay thương tự ông Quán dùng đã phản ánh rất chính xác độ nhạy của phản ứng ghét thương ở ông (từ hay trong văn cảnh này mang nghĩa chính là luôn xảy ra). Đối diện với cuộc đời và những con người cụ thể, tình cảm ghét thương cúa ông thường được biểu lộ tức thì, nồng nàn và rành mạch. Điều này cho thấy ông bề ngoài thì lánh đời nhưng bề trong thì luôn thao thức với thế sự, hằng bận tâm, bận trí về những điều đang xảy ra trong cõi nhân gian. Nhưng với cụm từ cũng là đặt giữa hay ghét và hay thương, ta hiểu điều cơ bản mà ông Quán muốn nói là mối quan hệ giữa hai phạm trù tình cảm này. Trong nhận thức phổ biến của người xưa, con người chí có thể và chỉ nên có một sự lựa chọn duy nhất, theo một hệ giá trị duy nhất. Bới vậy mới có “chuyện” cũng là – ghét bỏ, phản đối kẻ này, chuyện này cũng là biểu hiện của việc thương yêu, ủng hộ kẻ kia, chuyện kia mà thôi, tất cả cùng quy về một điểm. Dĩ nhiên, thương là gốc rễ của mọi thứ tình cảm khác. Nó bao trùm lên tất cả. Trong các yếu tố làm nên tình cảm thương, ngoài thương ra thì còn có ghét. Hiểu vấn đề như vậy, ta thấy dù cụm từ cũng là có vó đã đặt dấu bằng (=) giữa hai phạm trù thương và ghét, nhưng không thể hoán vị hai vế của “phương trình” theo lô gích toán học được ! Nói cách khác, nếu xem “Vì chưng hay gqhét cũng là hay thương” là một định lí, thì định lí đảo của nó sẽ mang một nội dung sai lầm hoặc phiến diện. Sau cụm từ cũng là hình như có một từ vì (cũng là vì) được nhà thơ cho ẩn đi.
Được Vân Tiên hỏi, ông Quán trước hết nói về sự ghét của mình :
Quán rằng : “Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời u, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng hề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quỷ phân băng,
Sớm dầu tối đánh lằng nhằng rối dân”.
Mọi đối tượng, sự việc bị ông Quán ghét mang một tính chất chung được chính ông thâu tóm trong hai từ tầm phào, hàm chứa ý vớ nghĩa lí. Đối với những thứ, những chuyện tầm phào đó, sự ghét được đẩy lên đến mức tuyệt đối. Có cảm tưởng khi kể với Vân Tiên, Tử Trực về chúng, lửa giận vẫn còn bừng bừng trong ông Quán. Giọng nói, lời thơ toát lên một sắc thái đay đả, chỉ chiết rất đặc biệt : “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”. Thật là lời nói biểu thị một cá tính mạnh, có vẻ cực đoan, và hơn thế, biểu thị một lập trường dứt khoát, kiên định. Điêu đáng chú ý là tất cả những kẻ đáng ghét được ông nêu lên làm “dẫn chứng” đều thuộc tầng lớp cai trị, tầng lớp “hôn quân, bạo chúa” vốn có những hành dộng mê dâm, đa đoan, dối trá,…bị sử sách và người đời nguyền rủa. Tác hại của những hành động đó thật ghê gớm : để dân,…sa hầm sẩy hang, khiến dân…chịu lầm than muôn phần, làm dân nhọc nhằn, làm rối dân… Bao nhiêu lần từ dân được nhắc đến trong đoạn thơ ! Điều này thể hiện rõ tư tưởng vì dân của ông Quán và đằng sau đó là của Nguyễn Đình Chiểu. Nhà thơ cùng với nhân vật của mình đã lấy quyền lợi của dân làm căn cứ đánh giá, thẩm xét việc làm của giai cấp thống trị. Và như vậy, mối tương quan giữa ghét và thương được nêu khái quát ở đoạn đầu lời ông Quán đến đây đã được chứng minh. Ta không chỉ đọc thấy từ doạn thơ thái độ “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm” mà còn cả niềm xót xa thương cảm nữa.
Ông Quán nói tiếp về những đối tượng khiến mình thương :
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Thương thầy Đổng Tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tôi dày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bi lời xua đuổi vê nhà giáo dân.
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương
Độc giả hẳn không thấy ngạc nhiên khi những người ông Quán “thương” và nêu tên đều là những danh nhân mà cuộc đời và sự nghiệp đã được ghi rõ trong sử sách. Chẳng phải ông đang xác nhận với Vân Tiên, Tử Trực rằng mình là người đã từng dọc thông kinh sử đó sao ? (Trong truyện, trước lời của ông Quán là lời của Trực : …”lời nói hữu duyên – Thế trông kinh sử có tuyền cùng chăng ?”). Nhưng điều đáng lạ là chuyện kinh sử thông qua lời thuật kể nồng nàn của ông bỗng trở nên vô cùng sống động. Với lòng thương của kẻ hậu bối (từ thương vừa mang nghĩa cảm thông, thương xót, thương yêu, vừa mang nghĩa kính trọng, tôn thờ), những cái tên tưởng khô cứng ngày xưa đã hoá thành những hình ảnh, những con người thật cụ thể, gần gũi, tưởng như đang sống đâu đó quanh ta. Ta đọc thấy đằng sau mỗi lời thơ một mối đồng cảm sâu sắc đối với những con người hết lòng vì dân vì nước nhưng không được toại chí. Nếu đặt đoạn thơ này vào bối cảnh thời cuộc khi Nguyễn Đình Chiếu viết Truyện Lục Vân Tiên, ta còn nhận ra mối ưu tư của nhà thơ về việc nhiều người thức thời, có chí canh tân đất nước dã không được triều đình trọng dụng. Xã hội Việt Nam đang ở trong tình trạng bê bối và bao nhiêu người tài giỏi có thể giúp đời đã phải chịu số phận bi kịch. Muôn dân cũng vì thế mà phải sống trong cảnh đau khổ triền miên. Tuy trong doạn thơ vừa trích, từ dân chỉ được nhắc tới một lần nhưng ta hiểu hình ảnh người dân chưa bao giờ thôi ám ảnh tâm trí ông Quán – nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Ông Quán kết thúc lời bàn về lẽ ghét thương của mình bằng một câu :
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Vẫn là cái ý trọng tâm đã nêu lên từ đầu bây giờ được láy lại mà thôi. Tuy nhiên, nếu câu “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” nặng tính chất sự lí thì câu “Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” nặng phần tình cảm, cảm xúc. Từ lại diễn tả rất hay trạng thái không cầm lòng được của một con người đã “trót” có tâm. Toát lên từ đây là một nỗi ngậm ngùi – cái ngậm ngùi của kẻ có học và trải sự đời. Chút xa vắng của tâm sự riêng hoà lẫn vào lời đàm luận về lẽ ghét thương khiến cho câu chuyện của ông Quán càng có thêm sức ám ảnh. Ông đang trầm giọng và cái giọng trầm ấy củng cố thêm trong ta ấn tượng : ta đang nghe không phải một bài giáo huấn đúng đắn nhưng khô khan mà đang nghe những lời tâm huyết không nổi ra không được hoặc “cực lòng nên phải nói ra”. Thì đúng là theo chuyện kể, có phải ông Quán – một kẻ tâm sáng, trí sáng, có “tài lành” của bậc chính nhân quân tử về ẩn thân ở chốn dân dã – bỏng dưng mà mỡ miệng bàn thế sự đâu ? Rõ ràng, những tâm sự vốn chôn sâu đáy lòng, khi được nói ra, luôn mang theo một âm sắc đặc biệt, gợi lên rất nhiều suy nghĩ.
Ở trên đã nói, quan điếm thương ghét của nhân vật ông Quán cũng chính là quan điểm thương ghét của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Nó thuộc hệ thống tư tướng đạo lí của nho gia và không hoàn toàn mới mẻ. Tuy nhiên, việc nhà thơ nêu lại nó trong bối cảnh xã hội rối ren thời ông sáng tác Truyện Lục Vân Tiên, tại vùng dất mới Nam Bộ, vẫn mang một ý nghĩa hết sức tích cực. Chuyện thương ghét của muôn đời, cuối cùng, đã được nhà thơ cấp cho một nội dung lịch sử cụ thế cùng với điểm nhấn ở thái độ vì dân.
Đoạn thơ Lẽ ghét thương có một vẻ đẹp mộc mạc rất đặc trưng của Truyện Lục Vân Tiên và thậm chí là của toàn bộ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, vẻ đẹp mộc mạc ấy toát lên từ tính cách bình dân của nhân vật; từ lời thoại bộc trực, thật thà ; từ lối dùng đại từ thể hiện lòng ngưỡng mộ chân thành thuần phác đối với những bậc tài đức (đức thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đổng Tử, người Nguyên Lượng, ông Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc) ; thậm chí từ những chữ dùng có vẻ chưa được tinh tế lắm xét theo văn cảnh như phân vân, lằng nhằng, ngùi ngùi,… vẻ đẹp mộc mạc của hình thức, trong trường hợp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, lại tỏ ra hết sức hoà hợp với tư tướng vì dân mà nhà thơ muốn phát biểu. Thật là điều tất yếu khi đoạn thơ này cũng như toàn bộ Truyện Lục Vân Tiên chiếm được cảm tinh sâu sắc của nhiều thế hệ dộc giả Việt Nam.