Soạn bài viếng lăng bác

Soạn bài viếng lăng bác của Viễn Phương

Phân tích truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn

I. Đọc – hiểu văn bản

Câu 1. Cả bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Tác phẩm có giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liên ở lăng, nơi vĩ lãnh tụ yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi đau xót lẫn nỗi tự hào.

  • Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự vào lăng Viếng Bác.
    • Mở đầu bài là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh của quê hươn đất nước.
    • Tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng : mặt trời, vầng trăng, trời xanh.
    • Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở lại bên lăng Bác.
  • Bố cục khá đơn giản, tự nhiên và hợp lí nhờ có mạch cảm xúc trên.

Câu 2. Hình ảnh đầu tiên quanh lăng Bác là hàng tre, biểu tượng của dân tộc. Vì nó là sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc ’’Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng’’. Hình tượng hàng tre bên lăng Bác sẽ được lặp lại tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng, làm đậm nét hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.

Soạn bài viếng lăng bác của Viễn Phương

Soạn bài viếng lăng bác của Viễn Phương

Câu 3.

– Khổ 2 : Khổ thơ thứ hai được bắt đầu bằng hình ảnh mặt trời.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Có hai mặt trời : mặt trời trong câu thơ trên là hình ảnh thực, mặt trời trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Lấy mặt trời để ví với Bác, nhà thơ thể hiện sự tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại.

Sự tôn kính ấy còn thể hiện tron hình ảnh dòng người ngày ngày vào viếng Bác.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Người vào thăm Bác, mang hoa đến viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói đến một ’’tràng hoa’’ khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.

– Khổ ba : nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng.

Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim !

Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiên liêng và thanh tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là anash tượng thực của mọi người khi được vào thăm lăng Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.

Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức một câu hỏi tu từ.

– Khổ cuối: Nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp sửa phải trở về miền Nam.

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm” bày tỏ niềm mong mỏi. Tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào trong niềm mong ước thiết tha muốn hóa thân vào những cảnh vật bên lăng Bác: muốn làm “con chim hót”, muốn làm bông hoa “tỏa hương” và hơn hết, muốn làm “cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.

Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở câu cuối bài tạo nên kết cấu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc trọn vẹn.

Câu 4.

  • Bài thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm, vừa tha thiết, đau xót, tự hào, thể hiện đúng tâm trạng xúc động khi vào lăng viếng Bác. Giọng điệu ấy được tạo nên bởi nhiều yếu tố: thể thơ, nhịp điệu của các câu thơ, từ ngữ và hình ảnh.
  • Thể thơ và nhịp điệu: thể thơ 8 chữ, nhưng có những dong thơ 7 hoặc 9 chữ. Cách gieo vần trong từng khổ cũng không cố định, có khi liền, có khi cách. Nhịp của các khổ thơ nhìn chung là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính, lắng đọng trong tâm trạng nhà thơ. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, với điệp từ muốn làm được lặp ba lần, thể hiện mong ước tha thiết và nỗi lưu luyến của tác giả.
  • Hình ảnh thơ trong bài có nhiều sáng tạo, kết hơp cả hình ảnh thực, hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Đặc sắc nhất là những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng (mặt trời trong lăng, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng) vừa quen thuộc, gần gũi với hình ảnh thực, lại vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.

Thảo luận cho bài: Soạn bài viếng lăng bác