Phân tích truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn
Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ của Mác-xim Go-rơ-ki
Bài làm
Đọc Cố hương, ta bắt gặp một giai điệu buồn, một nỗi buồn xuyên suốt, sâu xa từ hiện thực mang chất trữ tình thâm trầm, thấm thìa. Một câu chuyện dường như không có cốt truyện – chỉ như một bút kí sơ sài nhưng lại có sức đọng ở tầng sâu cảm nghĩ. Chủ đề của tác phẩm cứ toả rộng ra, nâng cao dần lên từ những vỉa quặng nổi, chìm, từ những mạch ngang dọc. Đề tài là cố hương, tất nhiên phải có hình ảnh về chính cố hương, nhưng ấn tượng đọng lại của truyện lại là những nỗi niềm buồn vui về mảnh đất nghìn đời của nhà văn, và sau đó là những day dứt băn khoăn : làm thế nào để thay đổi nó.
1. Hình ảnh một quê hương xơ xác tiêu điều.
Dấu hiệu đầu tiên của sự tàn tạ làm “lòng tôi se lại” là những “thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa” mà tác giả (nhân vật tôi) quan sát được ở ven sông. Đó không phải là hình ảnh về quê hương mà người viết mong chờ và hồi hộp biết bao sau hơn hai mươi nãm trở lại. Quê hương trong thực tế khác xa cái quê hương mà “tôi” có trong lòng, có trong kí ức. Cái hôm nay không giống cái hôm qua “Làng cũ tôi đẹp hơn kia !”. Vậy phải chăng cảm giác đầu tiên khi trở về làng này là một ngộ nhận, một cảm tính chủ quan vì “lòng mình vốn dã không vui”, hoặc sự thê lương cũng không đến nỗi như mình lầm tưởng ? Cảnh hiu quạnh khi bước chân đặt đến cổng nhà gieo thêm cái lạnh, cái buồn về sự tan hoang, thưa vắng. Nhà cửa, chòm xóm chắc hai chục năm về trước còn ấm áp đông vui, nhưng giờ thì nhiều gia đình đã dời đi, nay đã thành trống trải. Nhiều nhà khác dã ra đi, gia đình “tôi” cũng sắp sửa ra đi. Nhìn mấy cọng tranh khô phất phơ trên mái ngói nhà mình giống như một ngôi nhà vô chủ từ lâu, vậy nên “khống đổi chủ không được”, điều ấy tất nhiên, không khác gì những ngôi nhà trước đó. Đồ đạc trong ngôi nhà của “tôi” gần như bị quên lãng và nào có gì nhiều. Ấy thế mà biết tin, xóm giềng họ tộc đến “hỏi thăm” không ít. Động cơ không hoàn toàn chỉ là trong sáng, thể hiện ở cái không khí xô bồ không phân biệt được người ngay, kẻ gian vì khách khứa thì nhiều, trong dó có kẻ đến dưa chân, người đến lấy đồ đạc, cũng “có kẻ vừa dưa chân vừa lấy đồ đạc”. Vì vậy khi con thuyền của gia đình “tôi” rời bến lên đường thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà “hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt” đều đã được mang đi “sạch trơn như quét”. Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói không gì khác là mất mùa, thuế má… Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ đông con, tuy đứa bé nhất có thể lao đọng cũng đã “giúp được việc” rồi vẫn chẳng đủ ăn vì tai hoạ, vì sự sách nhiễu của bộ máy tham ô “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.
Có lẽ sự thay đổi nhiều nhất, ấy là sự biến dạng ở chính con người. Một Nhuận Thổ hôm nay hoàn toàn không giống với Nhuận Thổ năm xưa. Còn đâu khuôn mặt ngày nào tròn trĩnh, “nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”. Thay cho gương mặt rạng rỡ, hăm hở vào đời ngày đó là một cái gì thật tàn héo xác xơ “Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm”, chiếc mũ trên đầu rách bươm, chiếc áo bông mặc mùa lạnh trên người thì “mỏng dính”. Đặc biệt là hai bàn tay trước kia hồng hào, lanh lẹn, mập mạp nay chỉ còn hai bàn tay “vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Nếu chỉ là dấu vết của tuổi già, một cái gì vô cảm thì tại sao khuôn mặt Nhuận Thổ khi gặp người mà chính anh mong nhớ, đợi chờ lại “vừa hớn hở vừa thê lương”. Cái gì đó nhấn con người đói nghèo nhưng lương thiện ấy xuống tận bùn đen, đổ gương mặt vui tươi ngày trước trở thành mụ mẫm “đần độn” đi nếu không phải là do bao nhiêu tệ nạn : con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ. Nói đến tệ nạn và các thế lực áp bức này thông qua một nạn nhân của nó, sức tố cáo của ngòi bút hiện thực mạnh mẽ, dữ dội biết chừng nào ? Nhân vật thím Hai Dương, “nàng Tây Thi đậu phụ” có lẽ là đại diện cho số đông có những biểu hiện lưu manh hoá. Ra vẻ tức giận “tôi” giàu mà keo kiệt vì không chịu cho không những thứ “đồ gỗ hư hỏng”, mụ quay gót thong thả đi ra rồi “tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần, cút thẳng”. Hoặc một lần khác mụ “đứng cạnh đống tro, moi ra hơn mười chiếc, cả bát lẫn đĩa” rồi đổ cho Nhuận Thổ có ý gian lén lút vùi vào. Đứa trẻ nhỏ nhất bây giờ, đứa con thứ năm của Nhuận Thổ cũng không giống bố nó hai chục năm về trước, hoặc chỉ như một phiên bản đáng buồn vì gương mặt thì nó giống hệt anh “chỉ có điều vàng vọt, gày còm hơn một tí, và cổ không đeo vòng bạc mà thôi”. Rõ ràng bằng óc quan sát có sự đối chiếu làm nổi bật sự đổi thay, nhất là bằng phương thức miêu tả nói ít mà gợi nhiều, phác hoạ cái bên ngoài mà nói được bao điều sâu sắc bên trong hoặc điển hình hoá một chân dung, một tính cách nhân vật.
2. Nỗi buồn vô hạn của nhà văn
Khi quan sát, miêu tả cảnh và người nơi chôn rau cắt rốn, nhà văn vốn không có cái nhìn dửng dưng của người ngoài cuộc. Vì cảnh ấy, người ấy đối với nhà văn rất đỗi thân yêu, gần gũi. Có thể nào nhà văn “vô cảm”, dửng dưng ? Nhưng dù sao, những chi tiết phác hoạ trên đây vẫn là ngoại canh, đối với người viết, nó vẫn chỉ là khách thể, cái bên ngoài. Còn nỗi buồn vô hạn của nhà văn, nó lặn vào chiều sâu, vào tầng hai của hiện thực nhìn thấy. Ở đây, các phương tiện biểu cảm được tận lực phát huy và tỏ ra vô cùng hiệu quả.
Trước hết, ấy là cảm nhận về sự tù túng, quẩn quanh, ngưng đọng của một làng quê nói riêng, cũng là một đất nước Trung Quốc nói chung. Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ tính đến ba đời : từ cha Nhuận Thổ đến Thuý Sinh (con Nhuận Thổ) trước sao sau vậy, không “mọc mũi sủi tăm” lên được dù thời gian có đến một thế kỉ trôi qua. Ông là người “ở tháng”, cha là người được chủ gọi thêm, để coi giữ đồ thờ (trong những ngày giỗ tết), còn đứa con biết trôi dạt về đâu khi điểm tựa là gia đình, một gia đình đồng con làm không đủ sống. Nếu theo quan điểm “con hơn cha là nhà có phúc” thì gia đình Nhuận Thổ đúng là “vô phúc”. Một Thuỷ Sinh bây giờ đâu có bằng cha nó của hai mươi năm vể trước ? Một thím Hai Dương cũng khác trước nhiều. Cái lương thiện, hiền hậu của cô gái ngồi bán đậu phụ năm xưa đã thay thế bằng những gì không được đáng yêu như thế : tự cao, tự đại, tâng bốc lấy lòng, tham lam tinh quái, cái dáng điệu com-pa thay bằng tên gọi “mụ com-pa”…
Cùng với sự trói buộc vô hình của xã hội, những nạn nhân đáng thương này còn tự trói mình bằng một sợi dây truyền kiếp. Ấy là sự mặc cảm, những ngộ nhận về thân phận tôi đòi. Điều này làm cho nhà văn bất ngờ và đau đớn nhất. Vì đó là căn bệnh nan y về mặt tinh thần của những người áp bức do chính họ tạo ra. Nó phổ biến lan tràn trở thành một thứ “quốc dân tính” kìm hãm con người ngu muội trong một không gian khép kín tối tăm. Tình cảm giữa Nhuận Thổ với nhân vật “tôi” thật thân thiết, chân thành, cởi mở hồi còn là hai đứa trẻ ngày nào. Với nhân vật “tôi” sau hai chục năm dường như nó vẫn còn trọn vẹn, còn tươi nguyên như thế. Vì kỉ niệm giữa chúng gần giống như một thiên đường trên mặt đất. Nhuận Thổ khi ấy “lên tỉnh” thì lần đầu tiên mới trông thấy “những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả”. Còn về vùng biển quê Nhuận Thổ, nhân vật “tôi” tung tăng bay nhảy như một con chim sẻ sổ lồng. Mùa tuyết xuống thì đi bẫy chim, mùa dưa hấu thì đi canh lợn rừng, con tra, con nhím. Ra biển thì đi nhặt vỏ sò màu đỏ, màu xanh… cảm giác của nhân vật “tói”, cũng giống Nhuận Thổ là “chưa hể biết trên đời này lại có những chuyện mới lạ như vậy”. Với nhân vật “tôi”, những phát hiện mới này không chỉ là ngày hội, niềm vui, nó còn là sự kiêu hãnh so với bạn bè trên tỉnh vì “chúng nó cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi !”. Trong thế giới tuổi thơ hồn nhiên ấy, chúng đã từng là bạn bè, anh em dù hai gia đình không cùng một hoàn cảnh sống. Không có gì để phân chia kẻ nông thôn người thành phố. Những giọt nước mắt khi phải chia tay đéu rất chân thành chia đéu cho hai đứa trẻ ngây thơ. Nó là vô giá. Với nhân vật “tôi”, đó là vùng sáng của quê hương, hồn vía của quê hương. Hai chục năm xa cách, tuổi thơ đã đi qua nhưng có cái không thể đi qua, kí ức của “tôi” giống như “bừng sárig lên” khi bà mẹ nhấc đến “có anh Nhuận Thổ đến chơi” sau bao chuyện vật đổi sao dời xa lơ xa lắc. Còn Nhuận Thổ khi gặp lại “tôi” tại sao nét mặt “vừa hớn hớ vừa thê lương” ? Hớn hở vì vui mừng, đó là những tình cảm hồn nhiên chưa mất. “Tôi” đi xa, anh thường đến hỏi thăm. Nhận tin “tôi” trớ về, anh vội đến gặp mặt, lại còn cho quà dù quà quê chỉ là một gói đỗ xanh phơi kĩ. Tình cảm như thế là chân thật. Nhưng cái hiển nhiên thì đã không còn. Nhuận Thổ đã biết tiết chế sự hồ hởi thể hiện ở những hành vi ứng xử rất chừng mực. Anh đã tạo ra một thứ hàng rào ngăn cách. Thay cho cách nói suồng sã anh anh em em ngày nào là một thái độ khác : một dáng điệu “cung kính”, một cách chào “rành mạch” dường như anh đã tự dặn mình, đã luyện tập kĩ để không một mảy may vụng về, lúng túng : “Bẩm ông”. Cái cách thưa gửi lạ tai ấy thật bất ngờ vì lần đầu “tôi” nghe thấy trong quan hộ bạn bè, tri âm thân thiết. Nó ráo hoảnh trong sự ngăn cách phân chia. “Tôi như điếng người đi” chính là vì vậy. Sự đau đớn của “tôi” không nói được nên lời vì đó là nỗi đau quá lớn ngoài sức tưởng tượng của người kể chuyện. Hơn thế nữa, một cái gì còn lớn hơn, giống như một định mệnh : người đi ở vẫn là đi ở, người hèn hạ vẫn là người hèn hạ. Thế giới phẳng lặng này không dành chỗ cho sự thay bậc đổi ngôi. Trái tự nhiên, luật lộ vô hình vẫn ngang nhiên tồn tại, tồn tại trong ý thức con người, kổ cả con người bị áp bức khổ đau. Quan hệ thân mật đã trở nên xa cách, “tôi” không nói được gì hơn vì cái không khí ngột ngạt bao trùm. Cuộc trò chuyện giữa khách và chủ tớ nên rời rạc “toàn là những chuyện chẳng quan trọng gì”, bởi nó vô hồn nhạt nhẽo. Kể lể về nỗi buồn của bản thân Nhuận Thổ mà những nếp nhăn trên mặt anh không hề động đậy như anh là người kể còn nội dung câu chuyện là của một ai đó mà thôi. Gương mặt ấy “phảng phất như một pho tượng đá” thật phẳng lặng đến thản nhicn nhằm vĩnh viễn hoá những đau thương mà mình nếm trải nhọc lòng, không còn biết cái buồn vui hồn nhiên là gì nữa.
3. Một con đường đang hình thành ở phía trước
Như thế là con đường phía sau đã rõ : một con đường rất hẹp mà cũng rất dài vắt ngang bao nhiêu thế kỉ. Vấn đề đặt ra là có nên tiếp tục giẫm chân lên những bước chân của người khác hay thay đổi nó đi, mở ra một con đường mới. Hình ảnh về con đường cũ như tự nó hình thành : con đường tâm tưởng ấy song song với con đường có thực mà quy trình của nó dễ thấy biết bao : từ thành phố trở vé rồi từ dó lại ra đi, trở về trong đêm và ra đi trong buổi hoàng hôn. Hai khoảnh khắc thời gian đánh dấu một con đường ảm đạm. Phải chăng là rời bỏ cố hương cũng là chia tay với quá khứ, một quá khứ đáng buồn ? Câu văn bỗng trở nên đa nghĩa. Đó là “những núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp chạy về phía sau lái” có ý nghĩa về cuộc biệt li, biệt li mà “không chút lưu luyến” cảm thương. Trong bối cảnh đó, một cảm nhận mới, không phải không dính líu đến cuộc chia tay ập đến “tôi chỉ cảm thấy chung quanh tôi là bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”. Tuy vậy, tuy quá khứ thì có thể quên đi nhưng câu hỏi của thằng bé Hoàng còn đó “nhưng mà thằng Thuý Sinh nó hẹn cháu đến nhà chơi cơ mà !”. Quan hệ giữa “tôi” với Nhuận Thổ cứ cho là đã thuộc về quá khứ, còn tình bạn của hai đứa trẻ, nghĩa là một thế hệ tiếp nối thì sao ? “tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả…”. Trong tương lai số phận của chúng sẽ không thể nào còn giống chúng tôi, hoặc vất vả chạy vạy như tôi, hoặc “khốn khổ mà đần độn” như Nhuận Thổ, cũng không giống những người dưng “vì khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác”. Cuộc sống của chúng tôi, thời chúng tôi, thời của quá khứ không xứng đáng với con người. Nhà văn nghĩ đến một cuộc song khác, một cuộc đời mới mà “chúng tôi chưa từng được sống”, nghĩa là một xã hội phải thay đổi hẳn đi trong no đủ và nhất là một quan hệ mới giữa con người.
Nhưng hi vọng của người ta có ba, bảy đường. Ở đây lại xuất hiện một thứ ngã ba, có hi vọng hướng vé phía sau, có hi vọng hướng về phía trước. Trong Nhuận Thổ có cái ước mơ thứ nhất. Nó tự nhiên như một quán tính, một thói quen khi anh xin gia đình “tôi” chiếc lư hương và đôi nến. Dù cuộc sống có khốn khổ thế nào anh không bỏ được thói quen là “sùng bái tượng gỗ” của anh, tự nguyện trở lại cái quá khứ đáng hàng trăm lần nguyền rủa. Nhưng ngay ở hi vọng thứ hai, hi vọng một xã hội trong đó con người được giải phóng, được tự do cũng có thể không phải không hão huyền, và xét cho cùng, nó cũng là một loại “tượng gỗ” vô hồn, vô tri kiểu mới “thứ tượng gỗ tự tay tôi chế tạo ra”. Trở về với quá khứ thì quá giản đơn vì gần gũi, còn đánh cược cuộc đời mình về phía trước thì dường như lại quá “xa vời” gần với sự hư vô như nhìn vào ảo ảnh. Hình ảnh con đường và thái độ chọn đường đến phần kết câu chuyện mới thực sự được xác định. Biến mơ ước thành quyết tâm khi nhà văn tự nêu lên một định nghĩa về tương lai, cũng là về con đường mới : “kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Đặt ý nghĩ trên đây vào những năm hai mươi của thế kỉ trước, ta mới nhận ra một dự cảm tiên tri, một táo bạo và dũng cảm tìm đường của Lỗ Tấn. Phương thức lập luận với nhiều thao tác tư duy như: so sánh, loại trừ, phủ định để tìm ra chân lí phù hợp với giọng văn độc thoại ở đây. Giá trị nhân văn của Cố hương vì vậy không chỉ ở sự cảm thông (với nỗi khổ của kiếp người – như kiếp người Nhuận Thổ) mà còn là, và chính xác là xoá bỏ. Phê phán một xã hội đang tàn hay khát khao thiết kế một mô hình mới, một xã hội tốt đẹp cho con người, ngòi bút “trong nóng ngoài lạnh” của nhà văn có một sức lan toả sâu xa.