Phân tích tâm trạng của Thuý Kiều qua đoạn thơ Trao duyên
Phân tích đoạn thơ cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Đề bài:
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều qua đoạn thơ Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Bài làm:
Mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều là một tân bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. Mồi tình đầu đẹp đẽ, trong sáng giữa nàng với Kim Trọng đã sớm bị sóng gió cuộc đời làm cho tan vỡ. Sau khi bán mình chuộc cha để báo đền chữ hiếu, Kiều đã âm thầm khóc thương cho lời nguyền vàng đá với chàng Kim. Nàng đành cậy Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng. Trao duyên là nỗi đau lớn, nỗi đau đầu đời của người con gái tài sắc – Thúy Kiều.
Trong đêm gia biến: Một mình một ngọn đèn khuya, Áo đẫm giọt lệ, tóc se mái sầu. Nàng sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc của mình: Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng:
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang!
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa
Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự trách mình khăng khít, khiến người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động tìm đên nhau, yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cầm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc.
Một mình một bóng, đối diện với tâm trạng rối bời, Kiều chỉ biết âm thầm khóc than cho gia cảnh, cho duyên phận. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Nghĩ là làm, Kiều đã trao duyên cho Thuý Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Thấy Thúy Kiều khóc lóc, ủ ê, Thúy Vân gạn hỏi nguyên do và cũng lờ mờ đoán rằng chị mình đang mắc mối tình chi đây. Thúy Kiều trao duyên cho em mà trong lòng băn khoăn bối rối:
Rằng: lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Nàng thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình mà chỉ hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em gái mình thì cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm. Nó trở thành thiêng liêng, khó có thể đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình, Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời.
Kiều lâm vào tình thế khó xử: không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Lời gì vậy? Đó là lời nhờ em thay chị nối tình với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ, bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Cả một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này mà chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị thì Kiều như vụt thấy một làn chớp sáng: Đây rồi! Cô em gái này có thể giúp mình trả món nợ tình. Đề nghị ấy cùng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó quan trọng quá, sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người làm chồng đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà? Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến đột ngột ấy và hầu như ép Thúy Vận phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương. Chị thương em, tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết là em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, giờ lại đang đau xót vì mối tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết lời giãi bày, chắc cũng dã thấu hiểu lòng chị.
Phân tích tâm trạng của Thuý Kiều qua đoạn thơ Trao duyên
Người ta thắc mắc tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự khác biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không đọng ở chữ thứ nhất của câu thơ nữa mà còn làm giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, cái ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời dối dăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chịu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ là có nội dung tự nguyện còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ, chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được?
Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp, một tâm trạng phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện.
Thúy Kiều yêu cầu Thúy Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa, vì nàng coi sự chịu Lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì chỉ có kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy.
Trong những giây phút đau đớn, tội nghiệp này, Thúy Kiều vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiểu:
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.
Là người con có hiếu, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Ý nghĩ này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy Xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận, tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện cua sự thương thân, nhung Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với cái đạo đức thơm tho của em. Kiều nói với em những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ?
Ngôn ngữ của Kiều ở đoạn này là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều là cô gái rất giàu tình cảm nhưng với chuyện trọng đại của cả một đời người này, nàng không thể dùng tình cảm của mình mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh mà dùng lí lẽ, phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.
Trước lời nói có lí, có tình tha thiết của Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là chấp nhận. Đến đây, Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kỉ vật tình yêu giữa minh và Kim Trọng ra trao cho em gái:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cùa mình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm nữa. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: Chiếc thoa với bức tờ mây vẫn bằng giọng điệu cố giữ vẻ bình thản nhưng đến câu: Duyên này thì giữ vật này của chung thì nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, chứ phần nàng kể như dã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị nó là của chung. Rõ ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình vớị chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.
Mối tình đầu trong sáng, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Xin gửi lại chút tình trong kỉ vật này vậy! Giữa tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tự an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác. Ngôn ngữ nàng không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm và có cả ảo giác. Càng nói, nàng càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nổi rõ là mình mệnh bạc, tình mình mất đi và tất cả đà thành quá khứ:
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Đả động đến tương lai chắc chắn là mù mịt, Kiều không còn giừ được sự yên lòng trong phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu.Tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà mình chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vấn vương với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát khăn bồ liễu để đền nghì trúc mai cho người, Kiều đinh ninh minh sẽ là một hồn oan trong cõi chết và tha thiết dặn em hãy rảy cho chén nước làm phép tẩy oan.
Tất cả những điều ấy có mâu thuẫn với nhau không?
Trên kia, Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Thúy Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn, nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thê mà chỉ sau giây lát tưởng tượng, nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!
Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa mê nửa tỉnh, nửa phần là người sống, nửa phần đã là hồn ma. Tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời Kiều đã phảng phất giông như lời nói từ cõi bên kia vọng về.
Giọng thơ cũng bất chợt thay đổi. Hình ảnh, âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng {đốt lồ hương, so tơ phím), hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió).., Tất cả đều nói lên rằng Kiều đang sông trong tâm trạng khổ đau và càng khổ đau gấp bội.
Theo đà nửa tỉnh nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói một mình, nói với mình về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lờ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, đành gửi chàng muôn nghìn cái Lạy. Đau đớn, xót xa đến mức Kiều phải thốt lên:
Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang !
Thôi thôi ! Thiếp đà phụ chàng từ đây !
Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã lo cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vần cứ một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không giảm mà tăng lên gấp bội.
Nàng gọi tên chàng Kim nhữ trong cơn mế sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Đoạn thơ miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình ? Tất cả trái tim yêu thương nàng đành cho người yêu… Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hàng sông mãi với thời gian.