Phân tích bài thơ Tràng Giang (Bài Hay)
Phân tích bài thơ giải đi sớm (Tào giải) của Hồ Chí Minh ( mẫu 2 )
Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận (Bài Hay)
Nguyễn Thị Ngọc Trâm lớp 11A trường THPT Cao Bá Quát – Hà Nội
Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó phản ánh một nỗi buồn mênh mông da diết, một thiên nhiên khoáng đạt nhưng buồn. Đó là nỗi buồn dường như vô cớ siêu hình nhưng trong tận cùng sâu xa thì đây chính là nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn về quê hương đất nước.
Hai dòng thơ đầu là một cặp chứa đựng nghệ thuật đối của Đường thi. Trên cái nền mênh mông của sóng nước tràng giang, Huy Cận cho xuất hiện một hình tượng chiếc thuyền nhỏ nhoi điểm nhãn cho bức tranh ấy có thần.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Câu đầu cho thấy mối quan hệ tác động giữa khách quan và chủ quan. Dòng tràng giang xuất hiện những cơn sóng rất nhẹ, thế nhưng nó có khả năng gợi lên những lớp sóng trong tâm hồn người rất dữ dội. Sóng nước tràng giang tạo nên sóng buồn “điệp điệp” trong lòng người. Tràng giang gợi cho ta vè một con sông dài thế nhưng vần “ang” đã cộng hưởng với nhau tạo ra một tiếng vang. Theo Xuân Diệu thì tràng giang không chỉ là sông dài mà còn là sông rộng, sông sâu. Nó không chỉ là con sông gợi gợi tới Hồng Hà, là con sông tạo cảm hứng cho bài thơ này – hay sông La dòng sông quê hương của tác giả, dòng sông đã thổi vào hồn cho “Tràng giang” – mà nó còn là con sông của thời thế, con sông cuộc đời. Con sông ấy bắt đầu từ một quá khứ mông lung, nó chảy lửng lờ giữa lòng vũ trụ rồi nó trôi đến tương lai cũng hết sức mông lung.
Giữa những lớp sóng của nỗi buồn hiu hắt xuất hiện hình tượng một con thuyền thật cô đơn trong buổi chiều tàn. Cũng hình ảnh này, trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã cho bao thế hệ độc giả cảm nhận được dư vị bàng bạc của nỗi buồn:
“Gác mái như ông về viễn phố”
Còn con thuyền của Huy Cận thì không có bóng ngư ông, cũng không có ai chủ động gác mái chèo và không hề có một bến xa nào chờ đợi nó. Thơ Huy Cận chứa đựng một nỗi buồn trần thế ở bên trong, nên ta có thể hiểu con thuyền ấy là thân phận của con người. Tràng giang ấy chính là dòng đời bạc bẽo, cho nên con thuyền không thể trôi trên nước mà “song song” với nước.
Trong thực tế thuyền không “song song” với nước vậy thì không có quan hệ ngược chiều “thuyền về nước lại”. Rõ ràng ở đây con thuyền ấy vẫn lầm lũi trôi về xa và dòng nước “song song” đã không còn đồng hành với thuyền. Nó quay trở lại mặc cho thuyền trôi. Đó là sự ngoảnh mặt quay lưng của cuộc đời với những cá nhân đau khô. Ở cái nơi dứng tình, đoạn tuyệt giữa thuyền và nước xuất hiện những con sóng vô hướng với sầu trăm ngã:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngã”
Như vậy nỗi buồn đã chuyển hóa thành sóng. Buồn “điệp điệp” là một nỗi buồn định hương theo không gian trôi của tràng giang giờ đây đã trở thành cái sầu vô hướng lan tỏa toàn vũ trụ.
Câu thơ thứ tư là một sự sáng tạo đọc đáo của Huy Cận.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình tượng cành củi khô trên dòng tràng gian gợi cho ta thân phận một kiếp người. Trong quá khứ đây là một cành cây xanh tươi, nó được sống với nhau xanh của lá, với nhựa sống của cây. Ấy vậy trong hiện tại nó đã bị khô héo, đã phải lìa cội gốc để thụ động phiêu bạt mà không hề định hướng được cho mình tương lai. Rõ ràng cành củi khô nhỏ bé trôi trên sóng nước tràng giang thì không thể hứa được điều gì tươi sáng cả.
Nếu khổ thơ đầu tiên là những sự vật được nhìn trên sóng nước tràng giang, thì đến khổ thơ thứ hai ta bắt gặp một không gian ba chiều trên con sông dài, sâu, rộng ấy cùng với nỗi buồn thấm thía.
Câu thơ thứ nhất cho ta thấy bờ của tràng giang cồn bãi gập ghềnh. Nó không được phẳng lì như bãi cái trên con sông Đuống trong bài thơ Hoàng Cầm:
“Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”
Những cồn đất ấy nó đứng im nhưng cảm giác rợn ngợp của con người lại khiến cho nó chuyển động. Cồn nhỏ thì “lơ thơ” còn ngọn gió thì đìu hiu đầy âm khí chết chóc. Gió cứ lận quất, lan thang trong không gian của nghĩa địa ấy khiến lòng người trở nên hoang vắng, rờn rợn.
Vì thế mà nhà thơ muốn tìm tới một không gian xa hơn, có bóng dáng của con người hơn. Ông muốn được nghe âm thanh của sự sống dù chỉ là tiếng chợ vãn buổi chiều.
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Huy Cận giải thích: đâu đây có những tiếng thì thào nho nhỏ của một phiên chợ vãn ở làng xa nào đó. Còn Xuân Diệu thì cho rằng chẳng có tiếng chợ vãn nào ở làng xa cả, chỉ có cồn nhỏ và gió “đìu hiu” cũng khát vọng được nghe tiếng người nhưng không có.
Hai câu thơ tiếp theo là không gian ba chiều của tràng giang, nó kiểm soát toàn vũ trụ. Trước hết là chiều dọc, nó được nhìn bằng một cái nhìn rất “động”.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”
Nhà thơ đã rất tinh tế khi quan sát được cái vẻ đẹp thi vị của buổi chiều trên sông nước quê hương. Trời càng về chiều những vạt nắng như được đổ từ trên cao xuống thấp, càng về chiều càng có sự phân biệt sáng tối; dưới đất sẫm màu, trên trời vàng rực nắng. Do đó ánh sáng càng xuốn thì trời càng bị đẩy lên cao. Nhìn vào bầu trời cao vút ta có cảm giác không gian như lộn ngược, ta cứ nghĩ rằng mình đang rơi xuống một cái hang sâu thăm thẳm. Vì thế mà ba tiếng “sâu chót vót” được dùng ở đây rất hay và vô cùng độc đáo.
Sau chiều dọc thì chúng ta gặp một chiều ngang, chiều rộng:
“Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
Ở cái hệ tọa độ ba chiều ấy ta thấy xuất hiện một giá trị mong manh, nhỏ nhoi, cô độc là “bến cô liêu”. Tự nó mang ý nghĩa biểu tượng cho một kiếp người đáng thương trong vũ trụ bao la, mênh mông.
Đến khổ thơ thứ ba đành phải quay lại với mặt nước tràng giang, vì đâu đâu cũng tràn ngập bầu không khí ảm đảm, đau thương. Giờ đây không chỉ có một con thuyền, một cành củi, một thân phận cá nhân mà là số phận nổi trôi của cả cộng đồng vì không biết sẽ về đâu.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”
Câu thơ tiếp theo mong ước sẽ có một sự vật đâm ngang, lao vút qua dòng tràng giang để chủ động tìm một giá trị gì đó cho chính mình. Ở đây ước muốn có một chiếc đò ngang chờ người nối hai bờ vui đã đối lập chua chat với hiện thực. Tràng giang đã phủ định tuyệt đối bằng chữ “không” với cái mong ước nhỏ bé ấy.
“Mênh mông không một chiếc đò ngang”
Câu thơ tiếp theo là một khát vọng đã được giảm thiểu:
“Không cầu gợi chút niềm thân mật”.
Thôi thì không có chuyến đò ngang ta chỉ cần một chiếc cầu để nối bờ của “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu” với bờ có cây xanh và bãi cát vàng. Vậy mà chiếc cầu ấy cũng không hề có thực. Nhà thơ cảm thấy nhận được sự cô đơn lạc loài đang vây bủa. Khát vọng không phải lênh đênh như thuyền với cành củi khô, như cánh bèo dạt trôi; kháy vọng muốn thoát khỏi bờ sông lãnh lẽo, hoang vắng đã khiến cho nhà thơ hướng tới mong muốn hòa nhập vào xã hội để tìm kiếm sự đồng cảm, giao tiếp với con người. Và thật thất vọng biết bao nhiêu với một dấu hiệu nhỏ mong “gợi chút niềm thân mật” với xã hội loài người cũng không có nốt.
Không thể thực hiện được điều mình ước muốn, nhà thơ đành ngậm ngùi sống với khát vọng thầm kín bằng nỗi buồn lặng lẽ và đôi mắt mong ngóng:
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Khác với những hình tượng thơ hiu hắt trên sông nước tràng giang. Câu thơ này xuất hiện một cái nhìn thế giới rất sáng trong. Đó là màu xanh của sự sống, là màu vàng rực rỡ của niềm vui hạnh phúc. Như vậy là ước muốn sang bờ bên kia để hòa nhập với “bờ xanh tiếp bãi vàng” với “niềm thân mật” nhưng không thể thực hiện được nên nhà thơ đành phải ngắm nhìn trong rung rưng, ngậm ngùi.
Khổ thơ cuối cùng là một không gian xa tít tắp phía chân trời tràng giang. Đó là một xứ sở của yên bình hạnh phúc. Nơi ấy con người tìm lại được chính mình gắn bó với gốc rễ, quê hương, xứ sở; không phải lênh đênh lạc loài:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
Đây là câu thơ tả cảnh hoàng hôn buôn xuống, mặt trời tỏa ra những tia nắng gay gắt, chói lọi. Phía chân trời tràng gian xuất hiện những nấm mây trắng nhỏ. Chỉ trong chốc lát, lớp mây này đùn lên lớp mây kia. Và rồi không gian ba chiều trống rỗng của tràng giang bị những đám mây khổng lồ chiếm lĩnh toàn bộ. Mặt trời chiếu vào những núi mây ấy khiến cho nó trắng xóa, sáng lòa như những hòn núi được đúc bằng bạc. Câu thơ này thực ra lấy ý từ hai câu nhớ nhà của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn, cửa ải xa”
Người trí thức Tây học Huy Cận sau bao nhiêu lần vô vọng tìm kiếm nhưng không gian “gợi chút niềm thân mật” đã phát hiện ra được không gian để mình giải tỏa niềm đau là quê hương, là xứ sở Việt Nam. Vì vậy hình tượng cánh chim bay trong hoàng hôn tràng giang không ai khác hơn là hóa thân của chính Huy Cận.
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Cánh chim ấy cũng nho nhoi giữa đất trời vô hạn mênh mông nhưng nó khác củi kia, thuyền nọ là cái thế chủ động. Nó đã cảm nhận được cái sức nặng của hoàng hôn vô vị. Nó nghiêng cánh trút hết những niềm đau, nỗi khổ xuống tràng giang. Lòng của nó nhẹ nhõm để bay về hòn núi bạc.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước”
Câu thơ thứ hai xuất hiện hai tiếng “lòng quê” như vậy nghĩa là đã xuất hiện hình tượng con người. “Lòng quê” thể hiện một tấm lòng hướng về quê hương, về cha mẹ và những người thân yêu. Rõ ràng trở về với cội nguồn để là người Việt Nam chính là giải pháp đúng đắn nhất để giải thoát những nỗi cô đơn, những sóng gió phũ phàng của cuộc đời ở tràng giang:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Khói sóng là một yếu tố khách quan bên ngoài, nó gợi lên cho Thôi Hiệu một nỗi nhớ nhà:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
(Tản Đà dịch)
Nhưng đến Huy Cận thì không cần có khói sóng tức là không có sự gợi ý của khách quan mà vẫn nhớ nhà. Như vậy nhờ nhà đã có sẵn trong nhà thơ, bó bộc lộ trực tiếp mà không cần có một sự gợi ý bên ngoài.
Thực ra dù không có khói sóng nhưng đọc ba câu thơ trên ta thấy có rất nhiều yếu tố khiến Huy Cận nhớ nhà. Đó là những núi bạc, là cánh chim chiều trút cô đơn để bay về nơi hạnh phúc, là một khối “lòng quê” đang “dợn dợn vời con nước”. Bao nhiêu yếu tố ấy cũng đã đủ sức gợi nhớ quê hương đâu cần gì phải có khói sóng trên sông.
“Trang giang” là một trong những bài thơ rất đặc sắc, “rất Huy Cận”. Với những nét bút chấm phá thân tình về tạo vật, tâm sự nhẹ nhàng mà thâm trầm của một tâm hồn trẻ vội sớm già đã có khả năng đối thoại thấm thía với người đọc về vũ trụ trong ngọn lửa thiêng hội tụ lẽ sống nhân sinh mang tính “lương” và chất “thiện”.