Đề bài: Phân tích bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm
Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến (mẫu 2)
Bài làm
Ra chiếu cầu hiền là một việc làm quen thuộc của các bậc đế vương lúc mới lên ngôi và lúc đang ra tay xếp đặt lại chính sự. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy văn học trung đại còn để lại nhiều “tờ” chiếu cầu hiền, được viết bới những tác giả khác nhau, thừa lệnh những ông vua khác nhau. Số lượng tuy nhiều nhưng không phái chiếu cầu hiền nào cũng được hậu thế thưởng thức như một áng văn có giá trị, được các nhà sử học quan tâm tìm hiểu kĩ càng để có thể nhận ra dược thực chất của một triều đại và tầm nhìn của một đấng quân vương. Điều này có liên quan đến văn tài của người viết cùng tình huống lịch sử buổi chiếu cầu hiền được ban bố (với loại hình tác phẩm như chiếu cầu hiền, việc tìm hiểu kì càng những yếu tố ngoài văn bản có ý nghĩa rất quan trọng).
Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt vua Quang Trung là một “tờ” chiếu nổi tiếng. Nổi tiếng bởi nó gắn với tên tuổi của một người có công nghiệp rỡ ràng, hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, nhưng chưa được một số tầng lớp nhất định trong xã hội (nhất là giới sĩ phu Bắc Hà) tuyệt đối ngưỡng phục, do ông xuất thân không phải từ thành phần quý tộc, lại khởi nghiệp từ một miền đất mới và do vài nguyên nhân khác nữa. Nổi tiếng bời nó ra đời vào điểm cuối của một thời loạn lạc triền miên (kéo dài trong suốt gần hai trăm năm), khi nhân tâm li tán cùng cực, từ kẻ sĩ đến thứ dân, không mấy người tin và dám tin vào một cái gì chắc chắn. Đặc biệt, nổi tiếng do nó được viết bởi một trí thức hàng đầu của đất nước thời đó là Ngô Thì Nhậm – người đã biết vượt lên mọi dị nghị, hăng hái đứng ra phục vụ tân triều,…
Khi đảm trách việc viết Chiếu cầu hiền cho vua mới, Ngô Thì Nhậm có được những thuận lợi lớn : quan hệ giữa ông và Quang Trung là rất tốt đẹp. Quang Trung hiểu ông, trọng dụng ông và ông không chỉ phục mà còn biết ơn sâu xa người anh hùng này. Nhưng ông không phải chỉ gặp toàn thuận lợi. Tiếng gì ông cũng là bề tôi cũ của chúa Trịnh, giờ nói về đức sáng của Nguyễn Huệ, không dễ gì thuyết phục được những người cố chấp. Thêm nữa, ông hiểu những khó khăn riêng của vị vua “áo vải cờ đào” này (mà ở trên đã đề cập). Ông không có được sự thoải mái hoàn toàn như Nguyễn Trãi ngày xưa khi cũng thảo Chiếu cầu hiền (thay mặt Lê Lợi, lúc cuộc bình Ngô đã thành công trọn vẹn). Ban Chiếu cầu hiền, Lê Lợi hoàn toàn có lí do để không phải tỏ thái độ quá khiêm nhường. Nguyễn Trãi hiểu diều đó nên dã thể hiện lời của Lê Lợi như một mệnh lệnh nghiêm khắc : “Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại phu, từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã…”. Nguyễn Trãi cũng biết rõ uy lực của một bậc đế vương vừa hoàn thành đại nghiệp, rất quyết doán trong việc thưởng phạt, nên đã viết : “Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng”‘,… Những điều vừa được trình bày cho thấy : dù chiếu là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước, nó có những dinh lệ riêng, nhưng không phải vì thế mà viết nó chỉ là việc mỏ phỏng theo công thức. Tính cách, tư tướng, tầm nhìn của các vị vua là khác nhau. Tình hình đất nước trong mỗi thời lại có những nét đặc thù. Bởi vậy, mức độ nhạy cảm về chính trị, khả năng luận thuyết, tài văn chương,… của người lĩnh mệnh thảo chiếu luôn có đất đê thể hiện. Đọc Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt Quang Trung, độc già ngày nay có thể hiểu được rất nhiều điều về hai nhân vật xuất chúng này của đất nước – riêng từng người và cả mối quan hệ vua – tôi đầy đồng cảm, đầy tâm đắc giữa họ nữa.
Chiếu cầu hiền ta đang nói có ba phần lớn, liên kết với nhau theo một lô gích chặt chẽ.
Phần đầu của văn bản tập trung luận về người hiền và chức năng của họ. Người hiền được tác giả ví “như ngôi sao sáng trôn trời cao” và chức năng của họ được xác định là “làm sứ giả cho thiên tử”. Mối liên hệ giữa hai vấn đề này là gì ? Tại sao không ví người hiền với đối tượng nào khác ? Tất cả những điều này đều đã được tác giả ý thức. Người hiền như sao sáng – riêng so sánh này đã toát lên ý tôn vinh và trân trọng rất mực. Nhưng trong mạch lập luận của mình, tác giả nói đến nhiều ngôi sao là để dẫn chúng ta tới một ngôi sao chính : sao Bắc Thần (tức là Bắc Đẩu). Bắc Thần trước hết là sao – một ngôi sao có vị trí đặc biệt trên bầu trời, không ai không biết. Quan trọng hơn, Bắc Thần còn là hình ảnh tượng trưng cho hoàng đế, theo cách hình dung của đức Khổng Tử. Thì ra mấu chốt của mối liên hệ là ở chỗ này. Mọi sao trên trời đều chầu về sao Bắc Thần nằm ở vị trí trục quay của trái đất (nói theo kiến thức thiên văn của người ngày nay), vậy sao – hiền – tài từ các miền không chầu về sao – Bắc – Thần – thiên – tử thì còn chầu về đâu nữa ! Đó thực là một lẽ tất yếu. Đạo người, luật người phải tương hợp, phải thuận theo đạo trời, luật trời, không thể khác được. Từ một so sánh tưởng chừng ngẫu hứng và nặng vé tình cảm, tác giả dẫn người đọc tới một kết luận nghiêm túc và hết sức lồ gích. Như vậy, ngay từ mấy câu đầu, cái hay trong cách lập luận của áng văn đã được thể hiện. Hiệu quả của cách lập luận đó là vừa thuyết phục dược người ta về lí, vừa thuyết phục được người ta về mặt tâm linh. Tất nhiên, còn có thể nói thêm : việc tác giả vận dụng một ý trong sách Luận ngữ là rất giàu ý nghĩa. Đưa lời Khổng Tử ra từ đầu, tác giả đã tạo nên được tính chính danh cho Chiếu cầu hiền. Đối với nhà nho xưa, lời dức Khổng Tử chính là chân lí, nào ai dám không nghe theo. Và phái dâu vua mới là ke võ biền ít học, không biết lễ nghĩa !
Sau khi đã dặt được “viên đá tảng” cho toàn bộ hệ thống lập luận của áng văn, cũng ngay trong phần đầu, tác giả viết : “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Ý thì đòi hỏi mà giọng lại thấm đẫm nhân tình và chứa chan khích lệ. Vẫn là một thái độ chân thành yêu quý hiền tài, xem hiền tài như của báu trời sinh. Nếu hiền tài không được biết dến, không cho người ta biết đến thì thật phí hoài. Và cũng là có tội với dấng Tạo hoá đã có công sinh ra mình, vun đắp cho mình nữa ! Chưa kể việc hiền tài mà không được sử dụng thì đâu còn là hiền tài. Hiền tài không phải là cái danh suông. Giá trị của nó phải được xác định trong quan hệ và qua hành động.
Trọng điểm của phần thứ hai trong Chiếu cầu hiền là làm rõ tâm nguyện của Quang Trung mong có bậc hiền tài giúp mình trị nước. Đầu tiên tác giả nói tới sự trốn tránh việc đời của các kẻ sĩ giữa thời rối ren, loạn lạc mới đi qua : “Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Đây là đoạn văn chứa đựng nhiều tầng ý khác nhau. Trên bề nổi thì đó là sự thông cảm. Nhưng ở bề sâu thì đó là sự trách cứ, dù không gay gắt. Phải là người từng trải nghiệm tình thế cay đắng bắt buộc phải ngậm lời như hàng trượng mã, lại bao quát được đại cuộc mới viết nổi những câu như thế. Sự khái quát ở đây đạt tới mức độ rất cao. Những kiểu trốn tránh việc đời rất đa dạng, những màu vẻ khác nhau của bi kịch kẻ sĩ đều được điểm tới (điều này phải đọc qua nguyên tác hay bản dịch sát ý mới cảm nhận hết được). Cũng cần phải thấy rằng lời lẽ trình bày vấn đề trong đoạn văn khá tế nhị, vì nó đụng tới một chuyện nhạy cảm : khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh, nho sĩ Bắc Hà phần lớn tỏ thái độ bất hợp tác. Chuyện trước không thể không nhắc lại, nhưng quan trọng là nhắc với giọng điệu nào. Quang Trung, theo những gì biểu lộ trong doạn văn, là một con người đại lượng. Ông chỉ nói về các sự kiện xảy ra cách đó chưa lâu bằng mấy từ biến cố, thời thế khá chung chung (theo bản dịch). Thì cũng coi như một sự xí xoá, dù không hẳn là xí xoá. Điển xưa được dùng rất nhiều (da bò bền, hàng trượng mã, ra bể vào sông,…) có tác dụng làm mờ bớt tính “khó chịu” của các sự việc đã xảy ra, khiến người đọc Chiếu cầu hiền thuở ấy có thể bớt phần mặc cảm với tân vương. Phải nói rằng ở đây, với tư cách là người lĩnh mệnh soạn chiếu, Ngô Thì Nhậm đã thực hiện được một sự “hoà giải” khéo léo, trên cơ sở hiểu lòng ông vua tri kỉ. Và cũng từ đó, tác giả mới khơi được mạch văn chảy tới những lời bộc lộ thiết tha này : “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng ? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng ?”. Hai câu hỏi được đặt ra liên tiếp vừa thể hiện được sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện được sự đòi hỏi và thậm chí cả chút thách thức nữa của nhà vua. Đúng là những câu hỏi không thể lảng tránh trả lời !
Đoạn văn tiếp theo của phần hai bàn sâu vào tình thế lịch sử trước mắt và sự cấp thiết của việc cầu hiền. Lời văn từ mềm mỏng, tế nhị chuyển sang bộc trực, thẳng thắn. Toát lên từ đây là nỗi lo lắng thật sự của tân vương đối với vận nước khi nhìn thấy phía trước bộn bể những công việc cần xử lí, sắp đặt : “Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh…”. Ở đâu, với ai, việc ra chiếu cầu hiền có khi chỉ là một thủ đoạn nhằm thu phục nhân tâm, còn ở đây thì hoàn toàn không phải thế. Ta cảm nhận được nhịp tim đập mạnh, hơi thở nồng nàn của một con người cụ thể đang hành động, kiên quyết hành động vì một hoài bão lớn, đang hết sức cần một lực lượng giúp rập, phò tá, thể hiên qua nhịp điệu các câu văn : “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. […] trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao ?”. Sự cao giọng trong câu hỏi vừa trích còn phản ánh cái gì khác ngoài nỗi sốt ruột rất thật, niềm tin tưởng nhiệt thành vào “trữ lượng” hiền tài của đất nước ? Đúng là giọng của một con người đầy cá tính, không chịu lùi bước trước các trở ngại trên con đường gây dựng nghiệp lớn của mình. Chắc chắn khi viết những câu này, tác giả Chiếu cầu hiền đang ở trong trạng thái thăng hoa. Ngô Thì Nhậm nói giùm ước nguyện của quân vương hay nói chính nỗi lòng mình ? Quả thật rất khó phân biệt. Có thể nói ở đây có một sự cộng hướng khát vọng giữa hai con người, và giữa hai con người ấy với cả dân tộc.
Phần thứ ba, cũng là phần cuối của “tờ” chiếu nói rõ chính sách cầu hiển của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nội dung của chính sách đó có mấy điểm nổi bật: cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách ; cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi ; cho phép người tài tự tiến cử ; sẵn sàng cất nhắc người xứng dáng, không kể thứ bậc ; “tuỳ tài lục dụng” những kẻ được tiến cử ; không trị tội người có lời sơ suất,… Đứng là một chính sách rộng mở, có nhiều “điểu khoản” chi tiết và giàu tính “khả thi” (nói theo cách của bây giờ). Rõ ràng, trước khi ra Chiếu cầu hiền, mọi việc đã được dấng quân vương trù liệu khá kĩ. Ông đã tự chứng tỏ được tầm nhìn xa rộng cũng như khả năng tổ chức, xếp đặt chính sự của mình. Ông cũng đã biết giải toả những băn khoăn có thể có (trong đó có băn khoăn tế nhị về danh dự) cho mọi thần dân, khiến họ cảm thấy an tâm khi tham gia bàn việc nước… Từ những lời đã dược nói ra, ta thấy toát lên một giọng khoan hoà, điểm tĩnh rất dỗ lọt tai, giàu tính thuyết phục.
Ra đời với tư cách là một văn bản hành chính của nhà nước, Chiếu cầu hiền vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân của Ngô Thì Nhậm – người thảo ra nó. Dấu ấn này không chí thể hiện ở lối tư duy sáng rõ, lối lập luận khúc chiết, chặt chẽ mà còn ở sự nồng nàn của cảm xúc được chưng cất từ niềm tin vào chính sách đúng đắn của tân vương, tân triều và niềm biết ơn đối với “tấm lòng” đã không nhìn nhận mình chí như một bề tôi, một công cụ mà như một tri kỉ. Có thể nói Chiếu cầu hiền đã hội tụ được đầy đủ những điều kiện để trở thành một áng văn chính luận mẫu mực của muôn đời.