Cảm nhận về bài thơ Đây thôn vĩ dạ của Hàn Mặc Tử
Phân tích bài thơ Thơ Duyên của Xuân Diệu
Bài làm
1. Vĩ Dạ trong Đau thương và thơ điên
Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phải thấy rằng tập thơ quan trọng nhất của thi sĩ chính là Đau thương. Ngẫm tới cùng, Đau thương ở Hàn Mặc Tử chính là một tình yêu tuyệt vọng. Thực ra, không phải nỗi tuyệt vọng nào cũng làm cho con người gục ngã. Còn có nỗi tuyệt vọng làm tình yêu thăng hoa. Tuyệt vọng có thể chấm dứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng càng mãnh liệt. Con ngời ta lâm vào tuyệt vọng có thể vì những nguyên ủy rất riêng tây kín khuất, đôi khi ta bất khả tri. Hàn Mặc Tử có lẽ thuộc số đó. Ai cũng biết, chết là một cuộc chia lìa tất yếu và đáng sợ. Sống có nghĩa là đang chia lìa. Nhưng, may thay, hết thảy chúng ta đều có khả năng quên đi mà vui sống. Còn ở những người như Hàn Mặc Tử lại không được trời phú cho cái khả năng quên. Càng mắc những bệnh trầm trọng lại càng ám ảnh. Sống trong dự cảm khôn nguôi về thời khắc chia lìa, thi sĩ thường tự đẩy mình (giời xô đẩy thì đúng hơn) đến điểm chót cùng của tuyệt vọng để nuối đời, níu đời. Nói khác đi, Hàn Mặc Tử làm thơ bên miệng vực của nỗi chết. Không ai yêu sống, yêu đời hơn một người sắp phải lìa bỏ cuộc sống ! Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của niềm yêu ấy. Và trong lăng kính lạ lùng của niềm yêu ấy, cảnh sắc trần gian này thường ánh lên nhữntĩ vẻ khác thường : lộng lẫy, rạng rỡ, thanh khiết hơn bao giờ hết. Mà càng đẹp, càng tuyệt vọng ; càng tuyệt vọng, lại càng đẹp ! Thế là đau thương chứ sao ! Đau thương không chỉ là cung bậc mà còn chính là dạng thức cảm xúc đặc thù của Hàn Mặc Tử. Mỗi lần cầm bút khác nào một lần nói lời tuyệt mệnh, lời nguyện cuối. Cho nên mỗi lời thơ Hàn Mặc Tử thực là một lời bày tỏ da diết đến đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng. Và như thế, điều oái oăm đã hình thành : Tuyệt vọng đã trở thảnh một cảm quan, một cách thế yêu đời đặc biệt của Hùn Mặc Tử.
Có thể nói, đó là nghịch lí đau xót của một thân phận. Và nghịch lí này lại cũng là cấu trúc của tiếng nói trữ tình Hàn Mặc Tử : Niềm yêu là một nỗi đau, mỗi vẻ đẹp là một sự tuyệt vọng, cảnh sắc lộng lẫy chỉ là phía sáng của tấm tình tuyệt vọng.
Kết tinh từ nguồn thơ lạ lùng oan trái đó, Đây thôn Vĩ Dạ là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu mãnh liệt mà vô vọng. Nói một cách khác : là lời tỏ tình với cuộc đời của một tấm tình tuyệt vọng.
Nói đến một thi phẩm chản chính là phải nói đến điệu cảm xúc riêng của nó. Mà âm điệu chính là cái điệu tâm hồn, điệu cảm xúc của thi sĩ được hình thức hoá. Đọc thơ, nắm được âm điệu của nó xem như đã nắm được hồn vía của thơ rồi. Không cần phải cố gắng lắm người ta cũng thấy ngay mỗi khổ của Đây thôn Vĩ Dạ đều vang lên trong âm hưởng của các câu hỏi không lời đáp. Ba khổ là những câu hòi kế tiếp, càng về sau càng nặng lòng hơn : “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” ; “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc – Lá trúc che ngang mặt chữ điền” ; “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó – Có chở trăng vể kịp tối nay ?” ; “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh – Ai biết tình ai có đậm đà ?”. Âm điệu bao trùm lên thi phẩm chính là âm điệu hỏi ám ánh đó. Âm điệu chung còn được tạo bởi một thứ điệp khúc đặc biệt. Ấy là sự trùng điệp kín đáo của cùng một nét nhạc ở cả ba khổ thơ. Nét nhạc này là sự hoà hợp của các khuôn nhịp giống nhau (đều là nhịp 4/3) với các điệp từ tương ứng trong câu, mức độ điệp cứ ở lần sau lại mau hơn lần trước:
– Nhìn nắng hàng cau / nắng mới lên
– Gió theo lối gió / mây đường mây
– Mơ khách đường xa / khách đường xa
Nét nhạc lạ ấy có mặt ở cả ba khổ, là điểm nhấn trong nhạc điệu của mỗi khổ, nó phụ hoạ với âm hưởng của những câu hỏi vô vọng, khiến cho âm điệu thơ càng lúc càng trở nên da diết hơn, khắc khoải hơn.
Âm điệu như thế chuyển tải nỗi niềm gì đây ? Còn có thể là gì khác hơn nỗi đau đáu đầy uẩn khúc trong lòng thi sĩ ! Chính nó là một yếu tố liên kết đã thống nhất các khổ thơ “đầu Ngô mình Sở” vào một mối u hoài.
Ở bài thơ vốn được xem là kiệt tác này, niềm yêu đau đáu đến tuyệt vọng còn hoá thân thành một mặc cảm sâu xa, thấm đẫm vào toàn thể thi phẩm : mặc cảm chia lìa. Trước tiên, nó quyết định đến hình ảnh cái tôi của thi sĩ, đồng thời nó đổ bóng xuống cảm quan không gian của Hàn Mặc Tử, nó dàn dựng nên các tương quan không gian của Đây thôn Vĩ Dạ.
Đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác và tâm thế sáng tạo bấy giờ của thi sĩ, ta có thể thấy những điều ấy rõ hơn.
Sau khi mắc bệnh nan y, Hàn Mặc Tử đã coi mình như một cung nữ xấu số bị số phận oan nghiệt đày vào lãnh cung. Ấy là lãnh cung của sự chia lìa. Cơ hội về lại cuộc đời cơ hồ không còn nữa. Vô cùng yêu đời, thiết tha lưu luyến mọi người, vậy mà Hàn Mặc Tử đã chủ động cách li, quyết định tuyệt giao với tất cả. Nhưng tuyệt giao chứ không phải tuyệt tình. Thậm chí, càng tuyệt giao, tình nhớ thương càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hằng ngày ở trong cái lãnh cung ấy, thi sĩ thèm khát thế giới ngoài kia. Chủ động tuyệt giao chỉ là biểu hiện lộn ngược của lòng thiết tha gắn bó. Hễ tiễn một ai đến thầm mình về lại Ngoài kia thì chẳng khác nào tiễn người từ chốn lưu đày vĩnh viễn về lại cuộc đời, thậm chí như tiễn người từ cõi này về cõi khác. Một nửa hồn mình coi như đã chết theo. Từ bấy, trong thơ Hàn Mặc Từ hình thành hai không gian với sự phân định nghiệt ngã : Ngoài kia và Trong này. Nó là sự cách nhau của hai cõi, mà khoảng cách bằng cả một tầm tuyệt vọng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy Ngoài kia và Trong này (hay Ở đây) là hai thế giới hoàn toàn tương phản. Ngoài kia : mùa xuân, thắm tươi, đầy niềm trăng, đầy ý nhạc, tràn trề ánh sáng, là cuộc dời, trần gian, là sự sống, hi vọng, hạnh phúc,…
Trong này : chẳng có mùa, không ánh sáng, không trăng, không nhạc, âm u, mờ mờ nhân ảnh, là lãnh cung, là trời sâu, là địa ngục, bất hạnh,… Trong này chỉ vẽ lại được Ngoài kia bằng ước ao thầm lén, bằng khắc khoải tuyệt vọng mà thôi.
Tấm thiếp phong cảnh của Hoàng Cúc gửi vào lập tức đánh động khát vọng về Ngoài kia trong hồn thi sĩ. Thôn Vĩ Dạ hiện lên như một địa danh khởi đầu, một địa chỉ cụ thể của Ngoài kia. Nói khác đi, Ngoài kia trong cái giờ khắc ấy đã hiện lên bằng gương mặt Vĩ Dạ. Thèm về thăm Vĩ Dạ cũng là thèm khát về với Ngoài kia, về với cuộc đời, với hạnh phúc trần gian. Nghĩa là trong ý thức sáng tạo của Hàn Mặc Tử, Vĩ Dạ vừa là một địa danh cụ thể vừa được tượng trưng hoá. Trong văn bản của thi phẩm này, có thể thấy tương quan không gian như thế ở hai nơi chốn : “thôn Vĩ” (Ngoài kia) và “ở đây”(Trong này). Hình tượng cái tôi thi sĩ hiện ra như một người đang “ở đây”, ở Trong này mà khắc khoải ngóng trông hoài vọng về “thôn Vĩ”, về Ngoài kia. Đó là hình ảnh một cá thể nhỏ nhoi tha thiết với đời mà đang phải lìa bỏ cuộc đời, đang bị số phận bỏ rơi bên trời quên lãng, đang chới với trong cô đơn, đang níu đời, nuối đời. Đây thôn Vĩ Dạ chẳng phải là lời tỏ tình với thế giới Ngoài kia của kẻ đang bị lưu đày ở Trong này hay sao ? Chẳng phải lời tỏ tình ấy càng vô vọng lại càng mãnh liệt, càng mãnh liệt lại càng thêm vô vọng hay sao ?
Đau thương đã tìm đến “thơ điên” như một hình thức đặc thù đối với Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau. Sẽ không quá lời khi nói rằng Hàn Mặc Tử đã buộc chúng ta phải xét lại cái quan niệm hẹp hòi lâu nay về “điên” và “thơ điên”. Ta quen thấy điên chỉ như một trạng thái bệnh lí mà quên hẳn rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo. Điên ở Hàn Mặc Tử là trạng thái đau thương bên trong đang chuyển hoá thành sáng tạo. Cảm xúc tuyệt vọng, oái oăm thay, lại trở thành hưng phấn sáng tạo. Một hưng phấn cực điểm, thái quá, khiến tâm tư xé rào vượt ra khỏi những lối di, những biên giới thông thường. Ra đời như vậy “thơ điên” thường có những đặc trưng : a) là tiếng nói của đau thương với nhiều biểu hiện phản trái nhau ; b) chủ thể như một cái tôi li – hợp bất định ; c) một kênh hình ảnh kì dị, kinh dị ; d) mạch liên kết siêu lô gích ; e) lớp ngôn từ cực tả. Với những đặc trưng ấy (đặc biệt là điểm d) đã khiến cho mỗi bài thơ khác nào những xao động tâm linh được tốc kí trọn vẹn. Những vẻ “điên” này hiện ra trong các bài thơ thành dòng tâm tư bất định. Đặc tính này không khó nhân ra, nếu tác giả viết thơ tự do. Nhưng ở những bài được viết thành những khổ tể chỉnh, vuông vức, tròn trịa, thì viộc nhận biết khó hơn nhiều.
Có hình dung như vậy mới thấy Đây thôn Vĩ Dạ vẫn cứ là “thơ điên” theo đúng nghĩa, dù chưa đủ hết mọi đặc trưng điên. Không có những hình ảnh kì dị ma quái, những tiếng kêu kinh dị, nhưng ngôn từ đây đó đã là cực tả và mạch liên kết toàn bài thì rõ ra là “đứt đoạn”, “cóc nhảy”. Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ của lí trí. Nhìn từ văn bản hình tượng, có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau) ; hãy còn tươi sáng (vườn thôn Vĩ) chợt đã âm u (cảnh sông trăng và sương khói),… Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật tự, “vô kỉ luật”. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ “hàng chữ gấm” sang “đôi mắt mờ lệ” đó thôi. Nhìn từ mạch cảm xúc, cũng thấy có những gấp khúc, khuất khúc với những phía chợt sáng chợt tối như vậy. Khổ đầu : một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm vốn âm u lại mang gương mặt của khát khao rực rỡ ; khổ hai : một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt hoá thành một hoài vọng chới với ; khổ ba : một niềm mong ngóng vừa ló rạng đã vội hoá thành một mối hoài nghi. Nhìn từ cấu trúc không gian, cũng thấy bài thơ có sự chuyển tiếp không gian rất tinh vi, kín mạch, không dễ nhận ra. Trong phần sau của nội dung, có thể thấy ba cảnh chính : vườn xa, thuyền xa, khách đường xa. Chúng hợp thành cái thế giới Ngoài kia để đối lập với ở đây. Như sự đối lập quái ác giữa cuộc đời và lãnh cung, trần gian tươi đẹp và trời sâu ảm đạm, sống và không sống, gắn bó và chia lìa,… Khổ một còn ở thôn Vĩ Ngoài kia, khổ hai rồi phần đầu khổ ba nữa vẫn là Ngoài kia, đến cuối khổ thứ ba thì đã bay vụt vào Trong này, đã “ở đây” rồi. Nó là chốn nào vậy ? Còn chốn nào khác, ngoài cái nơi Hàn Mặc Tử đang bị căn bệnh tàn ác ấy hành hạ ? Chẳng phải đó là sự chuyển tiếp lối “cóc nhảy” rất đặc thù của “liên tưởng thơ điên” đó sao ? Điều đáng nói là : nếu lối liên tướng đứt đoạn, bất định của “thơ điên” lạo ra sự chuyên làn các cảnh sắc, các miền không gian một cách đột ngột đến tưởng như phi lí, thì âm điệu tự nhiên, nhuần nhuyễn của cùng một mối u hoài, trong cùng một lối thơ chia thành các khổ vuông vức tề chỉnh lại đã san lấp, phủ kín hoàn toàn những quãng đứt nối, khiến người đọc cứ mặc nhiên coi rằng bài thơ là sự nới rộng cùng một không gian Vĩ Dạ, mà không thấy rằng đó là sự ghép nối rất bất chợt, xuất thần giữa các vùng không gian vốn góc biển chân trời (“thôn Vĩ” là Ngoài kia, còn “ở đây” là Trong này). Theo tài liệu đáng tin cậy mới đây của Phạm Xuân Tuyển, trong cuốn Đi tìm chân dung Hàn Mực Tử, (NXB Văn học, 1997) thì bài thơ vốn có tên đầy đủ là Ở đây thôn Vĩ Dạ. Bấy giờ, thi sĩ đang tuyệt giao với tất cả, đến ở một chốn hoang liêu mạn Gò Bồi, cách li hoàn toàn với bèn ngoài để chữa bệnh. Theo đó thì, cái nơi chốn “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại càng là sự biểu hiện trực tiếp của chốn “trời sâu” bất hạnh mà Hàn Mặc Tử đang bị lưu đày (“Tôi đang còn đây hay ở đâu ? – Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ? – Sao bỗng phượng nở trong màu huyết – Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ?”). Có hiểu như thế ta mới thấy lối biểu hiện phức tạp của “thơ điên” và tình yêu tuyệt vọng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử.
Tóm lại, nếu mạch “liên tưởg điên” tạo ra một văn bản hình tượng có vẻ “đầu Ngô mình Sở”, thì dòng tâm tư bất định lại chuyển lưu thành một âm điệu liền hơi. Hệ quả là : dòng hình ảnh thì tán lạc, nhimg dòng cảm xúc lại liền mạch. Bởi thế Đây thôn Vĩ Dạ vẫn có một hình thái khá đặc thù của một thi phẩm “thơ điên”. Đó là phi lô gích ở bề mặt nhưng lại nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu. Tất cả vẫn khiến cho thi phẩm là một nguyên khối. Vì thế, vào cõi thơ Hàn Mặc Tử, không chỉ cần chú mục vào phần “lộ thiên”, mà cần đào rất sâu vào tầng “trầm tích” nữa !
2. Bước vào thi phẩm
Dù là “thơ điên” hay thơ gì chăng nữa, một khi dã là một thi phẩm giành được chỗ đứng trang trọng trong kí ức của người đọc nhiều thế hệ, thì dứt khoát phải nhờ vào vẻ đẹp tư tưởng của nó. Mà lõi cốt của tư tưởng ấy không thể là gì khác hơn một quan niệm nào đó về cái đẹp và hạnh phúc. Ai đã đọc Hàn Mặc Tử hẳn phái thấy rằng, chuẩn mực quan trọng nhất của cái đẹp theo quan niệm của thi sĩ chính là sự THANH KHIẾT. Điều này vừa có nguồn gốc từ trong nhỡn quan của một thi sĩ trước cuộc đời, vừa từ tín niệm tôn giáo của một kẻ mộ đạo. Ở cảnh vật, nó hiện ra thành vẻ THANH TÚ (thiên nhiên lí tưởng theo Hàn Mặc Tử phải là “chốn nước non thanh tú”). Ở con người, nó hiện ra trong vẻ TRINH KHIẾT (đầy đủ là “trinh khiết mà xuân tình”). Quan niệm về cái đẹp như thế đã chi phối ngòi bút Hàn Mặc Tử khi thể hiện con người và thiên nhiên. Trong thi phẩm này có sự hiện diện của những hình tượng cơ bản vườn thôn Vĩ, sông trăng, thuyền trâng, khách đường xa đều là những biểu hiện sống động của vẻ đẹp đó. Vì mặc cảm chia lìa với tất cả những vẻ đẹp trần gian kia, mà thi sĩ lâm vào tuyệt vọng. Và đương nhiên, Hàn Mặc Tử đã cảm nhận chúng qua lăng kính của niềm tuyệt vọng. Có thể trường hợp Hàn Mặc Tử là một minh chứng đáng sợ cho định nghĩa về cái đẹp của Pôn Va-lê-ri : Cái đẹp là cái làm ta tuyệt vọng. Mặc cảm chia lìa ở đây, dường như, đã hiện ra trong cảm giác vẻ một thực tại xa vời, một hiện tại quá ngắn ngủi và sự tồn tại mong manh của mình. Không chỉ thấm vào hơi thơ, giọng thơ khiến cho cả mạch thơ được phổ một âm điệu da diết, khắc khoải thật ám ảnh, mà trước tiên, mặc cảm chia lìa với các cảm giác éo le kia đã hoá thân vào từng hình ảnh, từng cảnh sắc của thi phẩm này.
Hãy đi vào từng khổ.
Câu mở đầu : “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” là một câu hỏi nhiều sắc thái : vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách, vừa mời mọc. Giờ đây chẳng ai còn ấu trì gán cho nó là câu hỏi của Hoàng Cúc hay của một cô gái nào ở thôn Vĩ nữa. Bởi, là đằng này thì vô lí – không đúng sự thực, là đằng kia thì vô tình – viết để tạ lòng Hoàng Cúc mà lại nghĩ đến cô khác ư ? Vả chăng, đâu chỉ có một câu hỏi này. Toàn bài có tới ba câu hỏi. Cả ba đều cùng một chủ thể. Trên kia đã phần nào nói đến việc bài thư được viết thành ba khổ trên âm điêu chủ đạo của những câu hỏi buông ra, buột lên, không lời đáp. Thực ra, câu hỏi chi là hình thức bày tỏ. Nó không đợi trả lời để thành đối thoại. Nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc bạch tâm tình. Ngữ điệu hỏi càng về sau càng khắc khoải hơn, u hoài hơn. Và, nhờ ngữ diệu nhất quán ấy, mà ba cảnh sắc ở ba khổ thơ vốn đứt đoạn “cóc nhảy” đã được xâu chuỗi lại tự nhiên khăng khít. Đó là Hàn Mặc Tử đang phân thân để tự hỏi chính mình. Hỏi mà như nhắc đến một việc cần làm, đáng phải làm, mà chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Ấy là về lại thôn Vĩ, thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Ta đều biết tuổi nhỏ Hàn Mặc Tử đã từng học trường Pellerin ở Huế, và khi in xong tập Gái quê, Hàn Mặc Tử đã từng đến tìm Hoàng Cúc tại thôn Vĩ mà rồi chỉ nấp nom ngoài rào trúc chứ không dám vào. Giờ đây, nhận được bức thiếp phong cảnh này, niềm khát khao đã cất lên thành lời tự vấn oái oăm vậy. Còn ba câu sau vẽ ra hình tượng mảnh vườn thôn Vĩ :
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Mỗi câu là một chi tiết vườn. Tất cả đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, qua các lập, thấy vườn thực sự là một mô típ ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm hao,… Dù mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Hàn Mặc Tử đều mang chung một diện mạo mà nhà thơ muốn gọi là “chốn nước non thanh tú”. Phải, thiên nhiên mà thi sĩ say đắm dứt khoát phải có vẻ đẹp thanh tú ! Không thế, Hàn Mặc Tử khó mà động bút. Dường như các mảnh vườn kia dã hò hẹn nhau đầu thai thành mảnh vườn Vĩ Dạ này. Chả thế mà chi tiết nào của nó dù đơn sơ cũng toát lên vẻ tinh khôi, dù bình dị cũng toát lên vẻ thanh khiết cao sang. Nghĩa là một “chốn nước non thanh tú” hoàn toàn.
Trong thơ Hàn Mặc Tử, nắng cũng là mô típ ám ảnh. Ta thường gặp những thứ nắng lạ đầy ấn tượng với những nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loạn,… Trong mảnh vườn này, Hàn Mặc Tử chí nói giản dị “nắng hàng can nắng mới lên”, cớ sao mà gợi thế ! Có lẽ nó đã gợi lên một sắc nắng tinh khôi, thanh khiết và thanh thoát mà chỉ hàng cau vào lúc ban mai mới có thể có được chăng ? Song, trọng tâm của hình tượng vườn dường như thuộc về những nét vẽ ở hai câu sau. Mà ấn tượng nhất là câu thơ có vẻ đẹp long lanh này : “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vì nó có sắc “mướt” chăng ? Vì được sánh với “ngọc” chăng ? Quả là hai chữ ấy đã đập ngay vào trực cảm người đọc. “Mướt” ánh lên vẻ mượt mà óng ả đầy xuân sắc. Còn “ngọc” là tinh thể trong suốt nên vừa có màu vừa có ánh. Nhờ đó, vườn thôn Vĩ như một viên ngọc không chỉ rời rợi sắc xanh, mà còn đang toả vào ban mai cả những ánh xanh nữa. Thiếu đi những ánh sắc ấy, mảnh vườn đơn sơ bình dị này khó mà hiện ra vẻ thanh tú cao sang. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ờ đó không thôi, ta mới chỉ thấy tầng lộ thiên của chữ “ngọc”. Ẩn bên dưới, vẫn còn tầng trầm tích nữa. Khảo sát phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, thấy thi sĩ này rất ưa dùng những vật liệu cao sang, nhất là ở giai đoạn cuối. Từ Thơ điên trở đi, các trang đều tràn ngập những vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược,… đặc biệt là ngọc. “Ngọc” vừa được dùng theo lối ước lệ cổ điển như tay ngọc, mắt ngọc, đũa ngọc,… vừa được dùng theo lối trực quan. Mà dù theo lối nào nó cũng là so sánh ở mức tuyệt đối. Nhu cầu tuyệt đối hoá này thường xuất hiện khi niềm thiết tha với cuộc đời trần thế dâng trào đến mức đau đớn. Càng đẹp lại càng đau. Cho nên, trong so sánh với “ngọc” luôn thấy chất chồng một cách oái oăm cả hai tâm thái : cảm giác càng tinh tế, cảm xúc càng đau thương. Ở đây cũng thế, ‘Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chứa dựng trong đó một cảm nhận về vẻ đẹp ớ mức tột bậc và cả niểm thiết tha ở mức đau thương. Cũng phải thôi, lộng lẫy đến thế, ngay trước mất thế, mà đang vuột ra ngoài tầm tay của mình, thì làm sao tránh khỏi đau thương!
Nhưng, bên cạnh những chữ phô ngay ra vẻ quyến rũ ấy, còn có những chữ khác, khép nép bên cạnh, khiêm nhường kín đáo thôi, nhưng dường như lại được Hàn Mặc Tử yêu tin mà kí thác vào đó những uẩn khúc, của lòng mình. Tôi muốn nói đến chữ “ai”. Nếu cả bài chỉ có một chữ này thôi thì chưa có gì thật đáng nói. Bởi chữ “ai” thường mang ý phiếm chỉ hoá, ỡm ờ hoá mà thơ truyền thống, nhất là ca dao đã khai thác đến nhàm. Đáng nói vì cả bài có tới bốn chữ “ai” nằm ở cả ba khổ. Chúng gắn với nhau bằng cả sắc thái lẫn giọng điệu tạo thành một “hệ vi mạch” ẩn sâu trong lòng bài thơ, chuyển tải một cảm giác sẽ xót – cảm giác về thực tại xa vời : Vườn ai…, Thuyền ai…, Ai biết tình ai… Thế giới này, cuộc đời này đẹp đẽ là thế, hiện ngay trước mắt thế, vậy mà đã hoá xa vời, vậy mà đã thuộc về Ngoài kia, thuộc về cõi trần ai kia. Sắc thái phiếm chỉ bỗng chốc đã làm tất cả như lùi xa, bổng như điệu vợi hoá, mông lung hoá. Cũng trong câu này, không thể không dành quan tâm ít nhiều đến chữ “quá”, bởi hiệu quả nghệ thuật riêng của nỏ. Cũng là từ chỉ mức độ, nhưng xem ra chỉ có nó mới đem đến cho câu thơ âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Ta sẽ còn gặp ở khổ cuối tiếng kêu như thế nữa – “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Nó cũng là tiếng kêu muốn tuyệt đối hoá vẻ đẹp của đối tượng. Nghĩa là những tiếng kêu hàm chứa nỗi đau thương.
Trong khổ này, câu thứ tư ddã gây nhiều tranh luận : “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Gương mặt kia là phụ nữ hay đàn ông ? Lối tạo hình của nó là cách diệu hay tả thực ? Ý kiến xem ra chưa ngã ngũ. Thực ra, làm sao lại có một chi tiết cách điệu lạc vào giữa một bức tranh trực quan thuần tả thực như thế này. Có người đã cất công để chứng minh dứt khoát dấy là gương mặt phụ nữ. Thiết tưởng muốn xác định là đàn ông hay phụ nữ, trước tiên cần phải trả lời một câu hỏi khác : đó là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ ? Nếu xét thuần tuý về cú pháp câu thơ, người đọc có quyền hiểu theo cả hai cách. Nhưng xét trong tương quan với toàn cảnh và trong hệ thống mô tip phổ biến ở thơ Hàn Mặc Tử, thì có thể loại trừ được cách không phù hợp. Nếu là người thôn Vĩ (chủ nhân khu vườn), thì hẳn phải là khuôn mặt phụ nữ. Một người đàn ông về thôn Vĩ chắc không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông ! Còn là người trở về thôn Vĩ, thì người ấy chính là Hàn Mặc Tử, nói chuẩn hơn là hình tượng của chính cái tôi thi sĩ. Tìm trong thơ Hàn Mặc Tử, sẽ thấy đây là lối tạo hình khá phổ biến, và cái nhân vật nép mình khi thì sau cành lá, khóm lau, khi thì sau rào thưa, bờ liễu,… như thế này thường là hình bóng tự hoạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Mà Hàn Mặc Tử vẫn có cái “thói” tự vẽ mình một cách rất kiêu hãnh và có phần… vơ vào nữa (“Người thơ phong vận như thơ ấy”, “Có chàng trai mới in như ngọc ? – Gió căng hơi và nhạc lên trời”, “Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó – Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu”,…). Thực ra, cũng chả riêng gì Hàn Mặc Tử vơ vào. Nguyễn Bính chân quê cũng “vơ vào” chả kém khi tự hoạ một cách bóng gió trong một khuôn hình gần giống thế : “Bóng ai thấp thoáng sau rào trúc – Chàng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền”. Nghĩa là khuôn mặt và hình dáng văn nhân cả thôi. Tuy nhiên, khuôn mặt chữ điền sau lá trúc, không chỉ là sản phẩm của “tâm lí vơ vào” dễ thương thế thôi đâu. Sâu xa hơn, nó còn là sản phẩm của mặc cảm chia lìa. Mặc cảm này thường khiến Hàn Mặc Tử vẽ mình trong các trang thơ như một “kẻ đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời”, kẻ “đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa”, kẻ đứng ngoài mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Kẻ ấy thường làm những chuyến trở về với cuộc đời Ngoài kia một cách thầm lén, vụng trộm. Thi sĩ hình dung mình trở về thôn Vĩ (hay tái hiện cái lần mình đã trở về mà không vào, chỉ nép ngoài rào trúc, thì cũng thế !), vin một cành lá trúc, che ngang khuôn mặt mình để mà nhìn vào, say ngắm vẻ đẹp thần tiên của khu vườn. Hiểu thế mới thấy câu thơ kia, hoá ra là sản phẩm nhất quán của một tình yêu mãnh liệt mà cũng là sản phẩm của một tâm hồn đầy mặc cảm về thân phận mình. Trong đó chẳng phải giấu kín một niềm uẩn khúc đáng trân trọng mà cũng thật đáng thương sao ? Song, hẳn sẽ có ý thắc mắc rằng : mạch thơ đang vẽ đối tượng (cảnh nơi thôn Vĩ) sao thoắt lại chuyển sang vẽ chủ thể (cái tôi thi sĩ), liệu có cóc nhảy, phi lô gích không ? Đúng thế. Nhưng, như bạn biết đấy, cóc nhảy và phi lô gích trên bể mặt chính là một đặc trưng của mạch liên tướng “thơ điên”. Sự chuyển kênh đột ngột ấy, trước sau, vẫn chỉ xoay quanh một niềm thiết tha vô bờ mà cũng đầy uẩn khúc của Hàn Mặc Tử mà thôi.
Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất này, cảnh sắc là thôn Vĩ mà cũng là Ngoài kia, vườn Vĩ Dạ mà cũng là vườn trần gian. Qua lăng kính của mặc cảm chia lìa, cả những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Với Hàn Mặc Tử đó là thiên đường trần gian – một thiên đường giờ đây dường như không thuộc về mình nữa, đang tuột khỏi tầm mình, về thôn Vĩ vốn là việc bình thường, với Hàn Mặc Tử giờ đây lại thành một ước ao – ước ao quá tầm với, thành một hạnh phúc – hạnh phúc quá tầm tay.
Khổ thứ hai chuyển sang một cảnh khác : cảnh dòng sông. Hiểu là sông Hương cũng được mà dòng sông nào đó của cuộc đời Ngoài kia cũng được. Mặc cảm chia lìa ở đây hiện ra cả trong câu chữ, hình ảnh và nhạc điệu :
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Hai câu trên nói đến một thực tại phiêu tán. Tất cả dường như đang bỏ đi : gió bay di, mây trôi đi, dòng nước cũng buồn bã ra đi,… Có phải cảnh tượng kia là một cái gì thật ngang trái, trớ trêu ? Đúng thế. Trước tiên, gió mây làm sao có thể tách rời – mây không tự di chuyển, gió thổi mây mới bay, chúng không thể chia tách. Rõ ràng, đây không còn đơn thuần là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm‘chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng không thể chia lìa ! “Dòng nước buồn thiu” vì mang sẵn trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn li tán chia phôi từ mây gió đã bỏ buồn vào lòng sông ? Khó mà đoan chắc. Lạ nhất là chữ “lay”. Động thái “lay” tự nó không vui không buồn. Sao trong cảnh này nó lại buồn hiu hắt vậy ? Nó là nét buồn phụ hoạ với gió mây sông nước ? Hay nỗi buồn sông nước đã lây nhiễm, đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp phất phơ này ? Thật khó mà tách bạch. Hàn Mặc Tử nhìn hoa bắp lay, nhận ra sự phiêu tán, sự ra đi. Cả mây, gió, cả dòng nước cứ lìa bỏ nhau và đều lìa bỏ chốn này mà đi hết cả. Chỉ riêng hoa bắp là cái tĩnh tại, không thể tự nhấc mình lên mà lưu chuyển. Bị bỏ rơi lại bên bờ, động thái “lay” kia có phải là một níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng của kẻ bị chia lìa ? Có phải Hàn Mặc Tử đã thấy hoa bắp côi cút bên sông như vận vào mình ? Có phải mặc cảm chia lìa đã khiến thi sĩ nhìn ra cái thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình trong dáng “lay” sầu tủi của hoa bắp ?
Đối mặt với cái xu thế tất cả đang chảy đi, bỏ đi, trôi đi càng lúc càng vuột xa ngoài tầm sống của mình ấy, thi sĩ chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng về với mình, ấy là trăng. Phải, mây đã đi, gió đã đi, dòng nước cũng đi,… may ra chỉ còn trăng thôi :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Trong bài thơ này có hai chữ “về”. Nếu chữ thứ nhất là về với Vĩ Dạ, với Ngoài kia (“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”), thì chữ thứ hai đây đã đổi hướng, là về phía Hàn Mặc Tử, về với Trong này. Cũng phải thôi, trong “lãnh cung” của sự chia lìa, vốn “không có niềm trăng và ý nhạc”, nên Hàn Mặc Tử đã đặt vào trăng kì vọng của mình : “Có chở trăng về kịp tối nay ?” Trăng giờ đây như một bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc ! Tìm kiếm vẻ đẹp của những câu này, người phân tích thường chỉ chú mục vào hình ảnh “sông trăng”, “thuyền trăng” với thủ pháp huyền ảo hoá. Thực ra đó chỉ là những vẻ đẹp thuộc cái duyên phô ra của thơ mà thôi. Tôi muốn nói đến chữ khác lâu nay bị bỏ quên, bởi nó lặng lẽ khiêm nhường chứ không bóng bảy, ồn ào. Nhưng nó vẫn đẹp trong quên lãng. Ấy là chữ “kịp”. Chữ “kịp” mới mang bi kịch của tâm hồn ấy, thân phận ấy. Ta và cả người đọc sau ta nữa chắc chắn không thể biết “tối nay” kia là tối nào cụ thể. Nhưng qua giọng khắc khoải và qua chữ “kịp” này ta nhận ra một lời cầu khẩn. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này, bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương. Như thế, chữ “kịp” đã hé mở cho ta một cách thế sống : sống là chạy đua với thời gian. Một so sánh với Xuân Diệu có thể thấy rõ Hàn Mặc Tử hơn. Cũng chạy đua với thời gian, nhưng ở Xuân Diệu là để được hưởng tối đa, sống đổ mà tận hưởng mọi hạnh phúc nơi trần giới, bởi đời người quá ngắn ngủi, cái chết sẽ chờ đợi tất cả ở cuối con đường ; còn Hàn Mặc Tử chỉ mong tối thiểu, chỉ được sống không thôi đã là hạnh phúc rồi, bởi lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng. Quỹ thời gian đang vơi đi từng giờ từng khắc, cuộc chia lìa vĩnh viễn đã sát gần. Trong cảnh ngộ này, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong nguy cơ chia lìa đương vây khốn. Thơ là sự lên tiếng của thân phận, thật trớ trêu, định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Khổ thứ ba, giọng khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Khác hẳn các đoạn trước, nhịp thơ ở đây gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn :
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Tất cả đều là những hình ảnh đầy mời gọi của thế giới Ngoài kia. Ở trên, tôi đã nói đến vẻ đẹp trinh khiết như là chuẩn mực cho cảm quan thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử. Trinh khiết trở thành vẻ đẹp phổ biến của thế giới và của những Nàng Thơ trong cõi thơ Hàn Mặc Tử. Những người con gái trong thơ Hàn Mặc Tử bao giờ cũng là hiện thân sống động của vẻ trinh khiết xuân tình. Gắn làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi. Cho nên ngóng ra thế giới Ngoài kia, thì hình bóng người khách đường xa (người tình xa) phải là trung tâm, phải thanh khiết nhất, lung linh nhất. Và đắm say tột bậc cái vẻ đẹp này, Hàn Mặc Tử thường cực tả bằng những sắc trắng dị kì. Thi sĩ dồn cả màu cả ánh để diễn đạt cho được trực cảm của mình. Thậm chí, có lúc không theo kịp trực giác, lời thơ trở nên kì quặc. Nhiều người phân tích chưa nhận thấy đặc trưng này của thơ Hàn Mặc Tử đã giải thích áo trắng quá nhìn không ra là bởi lẫn vào sương khói. Không phải the? “Áo em trắng quá nhìn không ra” chính là một tiếng kêu, một cách cực tả sắc trắng ở sắc độ tuyệt đối, tột cùng. Trắng đến mức lạ lùng, không còn tin vào mắt mình nữa (tựa như tiếng kêu “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” đã phân tích ở trên). Đừng lầm tưởng rằng đây là lời thú nhận về sự bất lực của thị giác.
Như thế, cuối cùng, mơ tưởng da diết, khắc khoải hơn hết thảy vẫn là dành cho con người, vẫn là hướng tới những người tình xa. Bởi phải chia lìa với thế giới Ngoài kia, có lẽ mất mát lớn nhất, niềm đau thương nhất vẫn là phải chia lìa với người mình yêu vậy.
Đến đấy, Hàn Mặc Tử quay trở về với thực tại u ám của mình, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mịt mờ :
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Được viết gần như đồng thời với bài Những giọt lệ, cho nên ta cứ nghe đâu đây trong những câu chữ kia tiếng dội của những giọt lệ đau thương, như hoài nghi, như hi vọng, như tuyệt vọng : “Tôi đang còn đây hay ở đâu ? – Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu ?” và “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi ?- Bao giờ tôi hết được yêu vì ?”,… Hàn Mặc Tử yêu đời đến đau đớn. Còn cuộc đời, tình đời còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu ? Cuộc đời Ngoài kia vẫn cứ kì diệu thế, vẫn “cách xa nghìn thế giới” như thế, vẫn cứ cách ở dây hẳn một tầm tuyệt vọng như thế. Tồn tại ở đáy, ở trời sâu này thật quá đỗi mong manh. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc Hàn Mặc Tử với ngoài ấy. Thế mà cái tình kia cũng mong manh xa vời làm sao ? Câu hỏi cuối cùng khép lại toàn bộ dòng tâm tư bất định này là tiếng thở dài hay là lời cầu mong của một kẻ thiết tha gắn bó đến cháy lòng ? Có lẽ là cả hai. Bởi vì uẩn khúc và nghịch lí chính là nét lạ lùng nhất trong cấu trúc của tiếng nói trữ tình Đây thôn Vĩ Dạ.
Thế đấy, tôi đã khá dài dòng khi hành hương về Vĩ Dạ theo cái đường dây mong manh và bí mật của tình yêu tuyệt vọng vốn chìm khuất trong thế giới của thi phẩm. Những đối chiếu giữa thi phẩm với thế giới nghệ thuật của thi sĩ : từ cội nguồn của tiếng nói trữ tình đến hình thức đặc thù của “thơ điên”, từ lớp biểu tượng ở tầng trầm tích đến phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử,… chính là những sự chỉ dẫn cần thiết. Không có bảng chỉ dẫn ấy, cuộc hành hương khó tránh khỏi sa vào bế tắc. Tuy nhiên điều tôi muốn nói thêm trước khi dừng là : Thôn Vĩ vẫn còn nhiều bí ẩn sẵn chờ và mời mọc những cuộc hành hương khác.