Bình giảng khổ thơ 10, 11 trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ. .. Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”

Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của phong trào Thơ mới giai đoạn 1930 – 1945. Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, tác giả đã từng viết : Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau và đã từng cầu xin : Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa để ẩn thân, trốn tránh mọi khổ đau, phiền não của cuộc đời… thì sau Cách mạng, trong sự nghiệp đổi đời của đất nước và dân tộc, nhà thơ cũng đã làm một cuộc hóa thân kì diệu để trở về hòa nhập với cuộc sống xung quanh và cũng là tìm về với chính mình.

Bài thơ Tiếng hát con tàu là khúc hát say mê, rạo rực của một hồn thơ đã thoát khỏi khung trời chật hẹp của cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của cái ta là nhân dân, đất nước. Nhà thơ ví tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực trong cuộc hành trình tiến lên phía trước mà đích đến là đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao cả, là cuộc sống đầy ắp chất liệu và cảm hứng nuôi dưỡng hồn thơ. Qua hai cuộc kháng chiến, do sống suốt một thời gian dài trong nhân dân và do yêu cầu công tác luôn phải đi đây đi đó, cho nên nhà thơ luôn được đùm bọc trong tình yêu thương của đồng bào ở khu Bốn, Việt Bắc, Tây Bắc… Tình cảm quý báu đó khơi nguồn thi hứng để tác giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu và đoạn trích này là đoạn hay nhất, thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về Tây Bắc – quê hương thứ hai – nơi có những con người đã gắn bó, chia sẻ gian nan, đã từng vào sống ra chết với mình. Người anh du kích, người mẹ vùng cao, đứa em liên lạc… đã trở thành sợi dây thiêng liêng nối kết nhà thơ với vùng đất ấy:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương ?

Từ những kì niệm cụ thể, nhà thơ khái quát lên thành một triết lí sâu sắc:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!

Triết lí mà không khô khan bởi nó được xây dựng bằng những xúc động chân thành của tâm hồn. Nó tác động mạnh mẽ đến nơi sâu kín nhất của lòng người, gợi chúng ta nhớ tới hình ảnh thân thiết của quê hương, làng xóm và những nẻo đường đất nước đã có dịp đi qua. Khổ thơ có nội dung như một sự phát hiện về quy luật của tình cảm và đời sống tâm hồn con người.

Ở khổ thơ tiếp theo, mạch thơ đột ngột chuyển sang cảm xúc và suy tưởng khác về tình yêu và đất lạ :

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

 

phan tich bai tho tieng hat con tau cua che lan vien

Nói đến tình yêu, Chế Lan Viên có cách so sánh thật độc đáo và thú vị. Nỗi nhớ trong tình yêu giữa anh với em là tất yếu, giống như quy luật của đất trời : đông về nhớ rét. Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng, như sắc biếc lông chim lúc xuân sang. Tác giả đã cụ thể hóa tình yêu – một khái niệm trừu tượng thành những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, nhất là với người dân miền núi. Ba hình ảnh so sánh tuyệt dẹp dường như cũng chưa đủ để diễn tả hết màu sắc, hương vị của tình yêu. Câu cuối như một lời khẳng định : Tình yêu mãnh liệt của con người đã khiến cho đất lạ hóa quê hương.

 

Trong những hình ảnh lấp lánh sắc màu ấy chứa đựng một sự chiêm nghiệm sâu sắc và thấm thía, phản ánh quy luật tình cảm của con người chẳng khác gì những quy luật bất di bất dịch của thiên nhiên.
Câu thơ Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương như một mệnh đề ngắn gọn mà cô đúc. Ý nghĩa của nó không chỉ bó hẹp ở tình yêu nam nữ mà còn mở rộng ra đến tình yêu con người ở đâu có tình yêu thương thật sự giữa người với người, ở đó là quê hương.
Người ta nhận xét thơ Chế Lan Viên thiên về trí tuệ. Rất đúng, bởi nhà thơ chịu khó trăn trở, tìm tòi để sáng tạo ra cái mới lạ, độc đáo; tuy nhiên thơ ông vẫn đậm đà chất trữ tình, lãng mạn.

Thảo luận cho bài: Bình giảng khổ thơ 10, 11 trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên