Soạn bài luật thơ
Soạn bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
I.Khái quát về luật thơ
1. Luật thơ của thể thơ là toàn bộ những quy tắc về số câu, số tiếng, cách gieo vần, phép hài thanh, ngắt nhịp… được khái quát theo một kiểu mẫu nhất định. Ví dụ: Luật của các thể lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn và thất ngôn…
Nói chung, ta có thể chia các thể thơ Việt Nam thành 3 nhóm chính:
- Các thể thơ dân tộc gồm: lục bát, song thất lục bát và hát nói.
- Các thể thơ Đường luật gồm: ngũ ngôn, thất ngôn (tứ tuyệt và bát cú).
- Các thể thơ hiện đại gồm: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ – văn xuôi…
2. Sự hình thành các luật thơ cũng như sự vay mượn, mô phỏng và cách tân các thể thơ đều phải dựa trên các đặc trưng ngữ âm của tiếng Việt, trong đó tiếng là đơn vị có vai trò quan trọng. Số tiếng và các đặc điểm của tiếng và cách gieo vần, phép hài thanh, ngắt nhịp… là các nhân tố cấu thành luật thơ.
II. Một số thể thơ truyền thống.
1. Thể lục bát (còn gọi là thể sáu – tám)
Ví dụ:
Trăm năm trong cõi người ta.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
- Số tiếng: Mỗi cặp lục bát gồm hai dòng: dòng lục (6 tiếng), dòng bát (8 tiếng). Bài thơ lục bát là sự kế tiếp của các cặp thơ như thế.
- Vần: Vần lưng hiệp vần ở tiếng thứ 6 của hai dòng và giữa tiếng thứ 8 của dòng bát với tiếng thứ 6 của dòng lục.
- Nhịp: Nhịp chẵn dựa vào tiếng có thanh không đổi (tức các tiếng 2, 4 6): 2-2-2.
- Hài thanh: Có sự đối xứng luân phiên B – T – B ở các tiếng 2, 4, 6 trong dòng thơ và đối lập âm vực trầm bổng ở tiếng thứ 6 và tiếng thứ 8 dòng bát.
2. Thể song thất lục bát (còn gọi là gián thất hay song thất)
Ví dụ:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
(Đoàn Thị Điểm (?), Chinh phụ ngâm)
– Số tiếng: cặp song thất (7 tiếng) và cặp lục bát (6 – 8 tiếng) luân phiên kế tiếp nhau trong toàn bài.
– Vần: gieo vần lưng ở mỗi cặp (lọc – mọc, buồn – khôn); cặp song thất có vần trắc, cặp lục bát có vần bằng. Giữa cặp song thất và cặp lục bát có vần liền (non – buồn).
– Nhịp: 3 -4 ở hai câu thất và 2 – 2 – 2 ở cặp lục bát.
– Hài thanh: cặp song thất lấy tiếng thứ ba làm chuẩn mực, có thể có thanh bằng (câu thất – bằng) hoặc trắc (câu thất – trắc) nhưng không bắt buộc.
Ví dụ:
Cùng trông lại mà cũng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
(Đoàn Thị Điểm (?), Chinh phụ ngâm)
Còn cặp lục bát thì sự đối xứng bằng – trắc chặt chẽ hơn (giống như ở thể lục bát).
3. Các thể ngũ ngôn Đường luật
Gồm có hai thể chính: ngôn ngữ tứ tuyệt (5 tiếng 4 dòng) và ngũ ngôn bát cú (5 tiếng 8 dòng). Thể ngũ ngôn bát cú có bố cục 4 phần: đề, thực, luận, kết.
Một bài thơ ngũ ngôn bát cú:
MẶT TRĂNG
Vằng vặc bóng thuyền quyên,
Mây quang gió bốn bên,
Nề cho trời đất trắng,
Quét sạch núi sông đen
Có khuyết nhưng tròn mãi
Tuy già vẫn trẻ lên
Mảnh gương chung thế giới
Soi rõ: mặt hay, hèn.
(Khuyết Danh)
- Số tiếng : 5 tiếng
- Số dòng : 8 dòng (thơ tứ tuyệt chỉ có 4 dòng)
- Vần : 1 vần (độc vận), gieo vần cách (bên,đen, lên, hèn).
- Nhịp kẻ : 2 – 3
- Hài thanh : có sự luân phiên B – T hoặc niêm B – B, T – T ở tiếng thứ 2 và thứ 4.
4. Các thể thơ thất ngôn Đường luật
Gồm có hai thể chính : thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú. Mỗi thể lại chia ra thất ngôn luật bằng (thể bằng) và thất ngôn luật trắc (thể trắc). Đây là hai thể thơ có kết cấu, niêm luật chặt chẽ, được nhiều người ưa thích và đến nay vẫn được nhiều người sử dụng để sáng tác.
4.1. Thất ngôn tứ tuyệt (còn gọi là thể tứ tuyệt hay tuyệt cú)
Một bài thơ tứ tuyệt thể trắc :
ÔNG PHỖNG ĐÁ
Ông đứng làm cho đó hỡi ông ?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó ?
Non nước đầy vơi có biết không ?
(Nguyễn Khuyến)
– Số tiếng : 7 tiếng
– Số dòng : 4 dòng
– Vần : 1 vần. Cách hiệp vần : vần chân, gieo vần cách (đồng – không).
– Nhịp : 4 – 3
– Hài thanh : Theo mô hình sau :
4.2. Thất ngôn bát cú
Một bài thất ngôn bát cũ thể trắc: Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan
– Số tiếng: 7 tiếng
– Số dòng: 8 dòng (chia thành 4 phần: Đề, thực, luận, kết).
– Vần: gieo vần chân, độc vần (hoa, nhà, gia, ta và tà ở dòng thơ thứ nhất).
– Nhịp: 4 – 3
– Hài thanh: Theo mô hình sau
Luật thơ thất ngôn bát cú rất chặt chẽ: một mặt là luật hài thanh, đối xứng giữa các tiếng 2, 4, 6 (có thể theo thể trắc hoặc theo thể bằng); mặt khác, đòi hỏi phải niêm (dính) giữa các dòng 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7 và 1-8. Về bố cục, bài thơ chia thành 4 cặp: 2 dòng đầu là đề (phá đề và thừa đề) để vào bài; 2 dòng tiếp theo là thực để giải thích rõ đề, 2 dòng luận để bàn luận và hai dòng kết để kết bài.
Như vậy, thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, nhưng vì thế mà rất gò bó và khó diễn đạt được những cảm xúc phóng khoáng, nhịp điệu rộng mở.
III. Các thể thơ hiện đại
Thành tựu lớn của phong trào Thơ mới (1932 – 1945) là đã đổi mới và sáng tạo nhiều thể thơ mới.
Thơ Việt Nam hiện đại có đủ các thể, từ thơ hai, ba, bốn đến năm, sáu, bảy, tám tiếng; thơ tự do và cả thơ – văn xuôi.
Các nhà thơ trong phong trào Thơ mới đã tiếp nhận ảnh hưởng của thơ Pháp và đổi mới luật thơ cũ, tạo thành nhiều thể thơ hiện đại.
IV.Luyện tập
Phân biệt cách gieo vần, ngắt nhịp và hài thanh của hai câu thơ bảy tiếng trong thể song thất lục bát với thể thơ thất ngôn Đường luật qua các ví dụ (SGK).
Gợi ý.
1. Đoàn Thị Điểm – Chinh phụ ngâm
Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mở mịt thức mây.
Cách gieo vần: gieo vần lưng: nguyệt, mịt
Ngắt nhịp: nhịp 3 – 4.
Trống Tràng thành / lun lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền / mờ mịt thức mây.
Hài thanh: cặp song thất lấy tiếng thứ 3 làm chuẩn, có thể có thanh bằng hoặc trắc. Ở đây là thanh bằng:
Trống Tràng thành (B)
Khói Cam Tuyền (B)
2. Cảnh khuya – Hồ Chí Minh
– Cách gieo vần: 1 vần, vần chân ở cuối câu thơ thứ 1, 2, 4: xa, hoa, nhà.
– Ngắt nhịp: Nhịp ¾
– Hài thanh: theo mô hình sau:
+ Dòng 1: T-B-T
+ Dòng 2: B-T-B
+ Dòng 3 : B-T-B
+ Dòng 4 : T-B-T
= > Tiếng thứ 2, thứ 4, thứ 6.