Soạn bài ca dao hài hước ( mẫu 2 )
I. Gợi ý trả lời câu hỏi
Câu 1. Bài 1.
a. Bài ca dao là lời đối đáp đùa vui của nam nữ, cũng là bà ca dao thể hiện tiếng cười tự trào của người bình dân. Bài ca dao gồm hai phần: lời của chàng trai nói về việc cưới của mình và lời của cô gái nói về việc thách cưới.
– Lời của chàng trai: Để cưới nàng, chàng trai đã có những dự định thật to tát. Chàng muốn có một đám cưới linh đình nhưng vì những lí do khách quan nên những dự định của chàng không thực hiện.
Muốn dẫn voi – > sợ quốc cấm
Muốn dẫn trâu – > sợ họ máu hàn
Muốn dẫn bò – > sợ hò nhà nàng co gân.
Khôn phải là chàng không muốn làm cho nhà gái nở mày nở mặt bằng một lễ vật sang trọng mà là vì chàng lo lắng, quan tâm tới sức khỏe của họ. Cuối cùng, chàng quyết định:
“Miễn là có thú bốn chân
Dẫn con chuột béo, mời dân mời làng’’
Lí lẽ của chàng trai thật thông minh, cũng thật hóm hỉnh, đáng yêu.
Chàng trai không thừa nhận cảnh nghèo của mình. Không lấy cảnh nghèo để buồn than, trái lại vẫn lạc quan, yêu đời. Tiếng cười sảng khoái bật ra từ lí lẽ của chàng trai: chuột cũng là thú bốn chân như voi, như trâu bò, lại là chuột béo nữa nên có thể mời dân, mời làng. Thực ra, chi tiết dẫn cưới bằng chuột là một chi tiết hư cấu (bởi dù nghèo cỡ mấy cũng chẳng ai dẫn cưới bằng chuột cả!). Nó thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, cũng là tiếng cười tự trào của chàng trai đối với hoàn cảnh của mình.
– Lời của cô gái:
Trước dự định dẫn cưới của chàng trai, cô gái vẫn cảm thấy hài lòng:
“Chàng dẫn thế, em thấy làm sang’’
Một con chuột béo đối với cô là đã sang rồi. Và trong việc thách cưới, cô gái cũng không đòi hỏi gì nhiều:
“Người ta thách lợn thách gà
Nhà em thách cưới một nhà khoai lang’’.
Lời thách cưới thật là vô tư. Đám cưới là một việc hệ trọng của đời người. Việc thách cưới còn thể hiện giá trị của người con gái. Nhưng đối với cô gái lễ vật không quan trọng. Cô đưa ra việc thách cưới chỉ để cho có lệ bởi em nghèo, anh cũng nghèo. Do vậy tuy là thách cưới nhưng lời nói của cô thật vô tư, dí dỏm và tươi vui. Cô gái không mặc cảm, không tủi thân vì cảnh nghèo, trái lại, lạc quan vô cùng.
– Bài ca dao có giọng điệu hài hước, dí dỏm, đáng yêu là nhờ các yếu tố nghệ thuật sau:
+ Bài ca dao sử dụng biện pháp khoa trương, phóng đại: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò.
+ Lối nói giảm dần:
Voi – > trâu – > bò – > chuột – > (chàng trai)
Củ to – > củ nhỏ – > củ mẻ – > cụ rím, củ hà (cô gái).
+ Cách nói tương ứng:
Dẫn voi / sợ quốc cấm
Dẫn trâu / sợ họ máu hàn…
Câu 2.
Bài 2. Chế giễu loại đàn ông yếu đuối, không đáng sức trai. Bài ca dao sử dụng biện pháp khoa trương, phóng đại cùng với thủ pháp đối lập đã tạo nên một tiếng cười hài hước, châm biếm. Tính hài hước là ở chỗ, bài ca dao xây dựng hình ảnh một chàng trai đang cố gắng hết sức (khom lưng chống gối) chỉ để “gánh hai hạt vừng’’.
Bài 3. Chế giễu loại đàn ông lười nhác. Không có chí lớn. Bài ca dao sử dụng biện pháp so sánh, nêu lên sự đối lập giữa “chồng người’’ với “chồng em’’, làm cho người đàn ông được so sánh hiện lên buồn cười và thảm hại vô cùng. Hình ảnh người đàn ông “ngồi bếp sờ đuôi con mèo’’ là tiêu biểu cho loại đàn ông lười nhác, chỉ biết ngồi ở xó nhà, ăn bám vợ.
Bài 4. Chế giễu loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên. Cách sử dụng nghệ thuật phóng đại tài tình (Lỗ mũi mười tám gánh lông), kết hợp với trí tưởng tượng phong phú đã xây đựng nên hình ảnh một phụ nữ với đủ thói xấu, bài ca dao ngoài mục đích là tiếng cười mua vui còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đối với loại phụ nữ đỏng đảnh, vô duyên trong xã hội. Cấu trúc “chồng yêu chồng bảo…’’ đặt bên cạnh những thói xấu của người phụ nữ làm cho lời nhắc nhở nhẹ nhàng và nhân hậu, làm giảm đi tính chất trang nghiêm mà một lời nhắc nhở thường có.
Câu 3. Biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng trong ca dao hài hước:
- Biện pháp hư cấu.
- Xây dựng nhân vật bằng những nét điển hình. Mang tính khái quát cao.
- Cường điệu, phóng đại.
- Tương phản, đối lập.
- Dùng ngôn ngữ đời thường mà hàm chứa ý nghĩa sâu sắc.
II. Luyện tập
Câu 1. Nêu cảm nghĩ của em về lời thách cưới của cô gái: “Nhà em thách cưới một nhà khoai lang’’, Qua đó anh chị thấy tiếng cười tự trào của người lao động trong cảnh nghèo đáng yêu, đáng trân trọng ở chỗ nào.
HS tự làm.
Câu 2. Một số bài ca dao phê phán:
“Làm trai cho đáng nên trai
Ăn cơm với vợ lại nài vét niêu’’
“Làm trai cho đáng nên trai
Vót đũa cho dài ăn vụng cơm con’’
“Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?
Thấy bói gieo quẻ nói rằng :
Lợi thì có lợi, nhưng… răng không còn’’.
“Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi cho tôi mượn cái gầu sòng,
Để tôi tát nước múc chồng tôi lên’’.
“Gái một con trông mòn con mắt,
Gái hai con, con mắt liếc ngang’’
“Ăn no rồi lại năm khoèo
Nghe giục trống chèo bế bụng đi xem’’.
……