Phân tích truyện ngắn Mùa Lạc của Nguyễn Khải

Qua việc trình bày sự biến đổi của số phận và tâm lí nhân vật Đào trong truyện ngắn Mùa lạc, anh (chị) hãy phân tích tác phẩm để làm rõ cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Khải ở thiên truyện này: căm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh.

YÊU CẦU
Phân tích làm rõ cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Khải qua nhân vật Đào trong truyện ngắn Mùa lạc..

Cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh được thể hiện trong việc nhà văn miêu tả sự biến đổi của nhân vật Đào qua hai nét chủ yếu:

–    Sự biến đổi của sổ phận Đào: từ một số phận có nhiều bất hạnh (cuộc sống không gia đình, không người thân, cô đơn, nay đây mai đó khi đã luống tuổi đến một cuộc đời hạnh phúc, có ý nghĩa (có tổ ấm gia đình, có bạn bè, có tương lai, có dự định ước mơ trong cuộc sống).

–    Sự biến đổi của tâm lí Đào: từ chỗ mặc cảm tự ti, rồi đanh đá, bất cần đời… đến tâm trạng vui vẻ, cởi mở, chan hòa với mọi người, yêu thương và tin cậy mọi người…

 

BÀI LÀM

Trong văn học, có những nhà văn, nhà thơ chiếm lĩnh đước tâm hồn độc giả ngay từ sáng tác đầu tiên. Nhưng điều đó rất hiếm. Nguyễn Khải không phải là tác giả nhanh chóng khẳng định được mình trên văn đàn. Ông bắt đầu viết văn từ năm 1950 song chưa thành công; càng về sau, văn phẩm của ông càng giữ được chỗ đứng vững chắc trong lòng bạn đọc. Khác với các nhà văn đương thời, Nguyễn Khải không chỉ thể hiện sự nhạy bén và năng lực khám phá với các vấn đề xã hội mà ông còn đi sâu miêu tả sự biến chuyển của cuộc sống, của con người. Qua việc đặc tả sự biến đổi về số phận và tâm lí nhân vật Đào (Mùa lạc – 1960), Nguyền Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng chủ đạo thiên truyện: cảm hứng về sự hồi sinh cuộc sống sau chiến tranh..

Truyện ngắn “Mùa lạc” phản ánh công cuộc đổi mới xã hội ở vùng đất sau chiến tranh, phản ánh cảnh sống con người trên nông trường Điện Biên. Đào cùng là một trong những người gắn bó với cuộc sống nơi đây. Chính mảnh đất này đã góp phần xây dựng cho cô một sức sống mãnh liệt, một cuộc đời mới.

 

phan tich truyen ngan mua lac nguyen khai

“Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài tết âm lịch chừng nửa tháng”. Trước khi lên nông trường, Đào “gặp nhiều điều đau buồn”. Cô “lấy chồng từ năm 17 tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới về quê. Ăn ở lại với nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Với người phụ nữ trẻ, mất chồng là nồi bất hạnh cùng cực, nhưng “mấy tháng sau đứa con lên sởi bỏ đi để chị lại một mình” thì không còn gì có thể đau khổ hơn thế. Đào phải bôn ba kiếm sống với nỗi đau chưa tắt, với cô quạnh bao trùm: “đòn gánh trên vai, tới đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gai, cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt.,.”, nơi nào cũng có dấu chân cô độc của chị. Với Đào, khó khăn về vật chất đã khổ (Mùa hè vài cái áo nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông ngấn bạc…) nhưng sự thiếu thốn trong tâm hồn còn đáng sợ hơn nhiều. Nhìn “ngọn đèn dầu” chị tủi thân “sực nhớ trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm”. Có thể nói Đào có một số phận bất hạnh. Những bi thương, khốn khổ hiện hình trên hình thức của chị: “Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều”. Chính số phận bất hạnh, bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời đã tạo nên cho chị một tâm lí “Muốn chết, nhưng đời còn dài nên phải sống”, một tính cách “táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người, hờn giận cho thân mình”.

Cuộc sống của Đào khi chưa lên Điện Biên không được Nguyễn Khải miêu tả chi tiết. Nhưng dưới ngòi bút đầy cảm thông, Đào hiện ra với bao nhiêu xót thương. Tuy nhiên, nếu chỉ có vậy thì chẳng có gì đáng nói bởi văn học xưa nay đã đề cập đến nhiều nỗi đau nhân thế. Giả sử Đào hiện diện cho con người chỉ biết đến đau khổ thì sẽ chìm lấp giữa trăm nghìn hình tượng khác. Ở Đào, tuy trải qua nhiều tháng ngày cơ cực, nhưng trong cô vẫn le lói mong muốn được sống. “Muốn chết” nhưng lại tiếc “cuộc đời còn dài”. Chính vẻ đẹp quả cảm  kiên nghị đã làm hình tượng nhân vật Đào sống mãi. Đã không thể chết thì quyết sống cho dù sống trong nỗi tủi nhục của con người biết phận mình trăm đường thua thiệt.
Đào lên nông trường “với tâm lí con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã chịu”. Ở nông trường, Đào hăng hái lao động bởi cô hiểu chỉ có lao động mới tìm thấy niềm vui và hạnh phúc. Cô thi đua với những người khỏe mạnh như Huân, Lâm… “bàn tay có ngón rất to vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau nắm từng bó lạc và bằng cử chỉ rất nhanh, chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục”. Lên Điện Biên, số phận của Đào dần dần thay đổi. Ít nhất ở thời gian này cô không phải bươn chải khắp nơi, không nhà không cửa. Cô đã tìm lại được chút niềm vui trong lao động, với những bạn bè xung quanh. Nhưng do Đào vẫn mang tâm lí mặc cảm, tự ti và chưa hiểu hết mọi người nên cô thấy đau khổ khi bị mọi người châm chọc. Đào mặc cảm vì cái xấu, cái nghèo… của mình, song anh chàng Lâm vô tâm lại khía đúng vào nỗi khổ ấy. Đào không có nhan sắc – vũ khí người phụ nữ nên cô dùng ngôn ngữ để tự vệ. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, chua cay: “Trâu quá xá, mạ quá thì, hồng nhan bỏ bị thì còn gì là xuân nữa hỡi các anh”. Đào là một người phụ nữ, cô cũng buồn về sự xấu xí, ế ẩm, lỡ làng nên đôi lúc cô mềm lòng, giãi bày sự đau khổ với người đời “mỗi năm mỗi tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi, nồi nào vung nấy, em đã có bố cháu ở dưới xuôi rồi”. Nhưng sau đó, Đào lại thấy tiếc cho sự thành thật của mình “chẳng việc gì phải tủi, phải nhún mình”. Cô khát vọng được sống bằng tất cả điều gì mình có, người nào chẳng có phần tốt đẹp. Cho nên Đào không chấp nhận sự thương hại. Cô dám nhìn thẳng vào sự thật, kiêu hãnh về sự thật ấy: “Huê thơm bán một đồng mười, Huê tàn nhị rữa giá đôi lạng vàng. Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ…”. Giọng nói chanh chua, chua chát, đanh đá của Đào thật ra chẳng làm ác với ai. Đó chỉ là vũ khí tự vệ để dấu đi tâm lí mặc cảm, đau buồn trong lòng – nỗi đau của còn người ý thức được mình. Đào hiểu muốn hòa nhập là phải tìm thấy trong cuộc sống, trong lao động nét chung, những tấm lòng bao dung. Nhưng hòa nhập không phải là hạ mình, mà vẫn ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Tâm lí Đào thật phức tạp, lúc hờn giận, lúc tủi hổ, khi lại ngẩng đầu hãnh diện. Chính ở tình tiết này, Nguyễn Khải bộc lộ khá rõ cảm hứng về sự hồi sinh của sự sống. Chỉ khi nào tâm hồn con người biết đấu tranh, biết vươn lên, lạc quan, biết khát thèm sự sống thì tình cảm mới biến chuyển, thay đổi, thể hiện cho sự giằng xé đời hồi sinh. Nếu con người không muốn đến với sự sống thì tâm hồn mãi chỉ là chuỗi dài le lói, băng lạnh, chẳng nẩy sinh ra nhiều diễn biến tâm lí, tình cảm phức tạp.
Thời gian đầu lên nông trường Điện Biên, số phận và tâm lí Đào đã bước đầu thay đổi. Cô đã dần mất đi suy nghĩ “còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ”. Chị không còn tâm lí buông trôi chơ số kiếp, chị biết kiêu hãnh, biết sống vì phần tốt đẹp bên trong của mình. Nhưng phải đến thời gian sau – thời gian Đào thật sự hòa nhập với cuộc sống nông trường thì cuộc đời chị mới lật sang trang mới. Đến đây, cảm hứng về sự hồi sinh của cuộc sông sau chiến tranh mới được nhận thấy một cách rõ ràng, đầy đủ.
Trước kia, tâm lí cửa Đào là “chán sống”, “quên đi cuộc đời”, nhưng sức sống vần ẩn giấu mãnh liệt trong con người chị qua hình dáng, cử chỉ, ngôn ngữ của chị. Con người với “hai mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh (…) hàm răng khểnh của người luôn luôn ưa đùa cợt” cùng tâm lí “đôi mắt nhỏ vẫn ánh lên thách thức” thì không bao giờ chán sống. Tâm lí mặc cảm, tự ti, đanh đá chỉ là lớp vỏ qua bao nhiêu nắng mưa dãi dầu. Niềm khát khao sống trong cô bao giờ cũng mãnh liệt, hễ khi gặp điều kiện sẽ hồi sinh, phát triển mạnh mẽ. Đào không chịu khép mình trong nỗi đau thầm lặng. Chị sống táo bạo và liều lĩnh bởi chị CẦN SỐNG, THÈM SỐNG. Nỗi khát thèm ấy dữ đội, bùng cháy chứ không thể âm ỉ, bằng lặng.
Từ tâm lí ghen tị, Đào tìm thấy niềm vui, lao động hăng hái, lối sông tiêu cực bị đẩy lùi. Làm việc bên Huân, nhìn “đôi cánh tay cuồn cuộn thớ thịt cháy nắng, Đào cháy lên nỗi thèm muốn một cảnh gia đình”. Nguyễn Khải viết về sự hồi sinh của cuộc sống, nhưng không chỉ là cuộc sống vật chất, cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ, rút đồng, miếng vàng sẫm của mấy mảnh gianh…, mà quan trọng hơn là cuộc sống tinh thần. Sự “hồi sinh” là gì, nếu chẳng phải là sự sống lại mơ ước “cảnh gia đình” đầm ấm, tình cảm hạnh phúc. Đào thích gần Huân chưa hẳn là Đào yêu Huân, bởi lí trí mách cô đừng hi vọng gi ở người con trai ấy. Đào đến với Huân vì hơi thở, nụ cười, sức mạnh của anh đốt lên trong cô niềm hi vọng mới – hi vọng cuộc đời mình chưa tắt hẳn. Sự hồi sinh ở đây chính là tâm lí bền bỉ trong Đào không chịu tắt theo năm tháng.
Sự hồi sinh – chủ yếu phải do bản thân vận động. Nhưng nếu gặp tác động nào đó, sức sống sẽ nhanh chóng, mạnh mẽ trỗi dậy, Với Đào, sự hồi sinh trong tâm hồn cô trở nên mãnh liệt, lúc âm ỉ, khi bùng cháy dữ dội từ lúc nhận được bức thư tỏ tình của thiếu úy Dịu.
Lúc đẩu, Đào bất bình vì nghĩ “người ta đem mình ra mà đùa cợt”, người ta khinh mình, Những mặc cảm, tự ti trong chị vẫn chưa chết hẳn, nó khiến chị tức giận muốn xé bức thư ra “làm trăm mảnh”. Nhưng khi gấp lá thư lại, một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra như mạch nước rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn. Hình ảnh “thớ đất khô cằn” chỉ là hình ảnh ẩn dụ chỉ tâm hồn Đào đã chết cứng, đã chai sạn qua bao năm nay, vất vả. Song “mảnh tâm hồn” ấy đã tươi tốt, nẩy mầm bởi cô nhận được lời yêu thương, gắn bó qua bức thư tình, Lời lẽ trong bức thư khiến cho số phận, tâm lí Đào chuyển đổi hoàn toàn, Chị không còn ác cảm với mọi người, vui vẻ, “sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa nghịch khác. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đây là anh em, là người làng, họ nhà gái cả”. Giờ đây, sự sống thật sự trở lại với Đào. Cô không còn chán sồng mà thấy mình gắn bó với nông trường: “Chẳng ai ở vậy được suốt đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương… em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Phải đặt hoàn cảnh Đào trong hiện tại với quá khứ mới hiểu hết ý nghĩa, khát vọng trong câu nói của Đào. Hành trình hồi sinh của tâm hồn con người qua bao nhiêu thăng trầm đã SỐNG.
Đào là con người đau khổ, cô không “hồng nhan” nhưng vẫn cứ “đa truân”. Cô xấu xí, mặc cảm, tự tỉ, chán nản với đời khi mới hai tám tuổi. Nhưng cô đã biết vượt qua những rạnh giới hạn hẹp cá nhân để vươn lên chiếm lĩnh cuộc sống. Như vậy, Nguyễn Khải đã phát hiện ra sự sống của con người không bao giờ vơi cạn, kể cả khi tưởng chừng như cá nhân đó buông trôi số phận cho “con tạo xoay vần”.
Sự hồi sinh của cuộc sống sau chiến tranh không chỉ thể hiện qua nhân vật Đào, mà còn bộc lộ qua Huân với “những khát khao, những ước mơ đốt cháy trái tim”, qua lời ngỏ “táo bạo” của ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch. Sau chiến tranh, sự sống hồi sinh khiến “khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng đấm tay thùm thụp”. Mảnh đất Điện Biên trước kia là chiến trường ác liệt nhất Đông Dương, mà chỉ mấy năm sau, sức sống đã trở lại: “Trong những buổi lễ cưới người ta tặng nhau một quả mìn nhẩy đã tháo kíp làm giá bút, một quả lựu đạn cối tiện đầu làm bình hoa, một ống khối thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giây gia thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng mượt”. Sự hi sinh xương máu và sức lao động đưa đến một màu xanh thay cho dây thép gai, mìn và còn tràn ngập những tiếng cười, tràn ngập niềm vui và hạnh phúc: “tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc” mà Nguyễn Khải phát hiện ra chỉ sau bốn năm chiến tranh là biểu hiện sâu sắc sự sống đang hồi sinh khi chiến tranh đi qua: “cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi”.
Bên cạnh sự hồi sinh trong tâm hồn cảnh sống con người là sự hồi sinh của thiên nhiên, của cơ sở vật chất: “Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh phía Tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số sáu… Một năm đã đi qua, mùa xuân thứ hai đã đến. Mày xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lan dần lên các thứ màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang”.
Thông qua nhân vật Đào, Nguyễn Khải đã thể hiện một cảm hứng mới – cảm hứng về sự hồi sinh của sự sống sau chiến tranh. Đồng thời biểu hiện một năng lực quan sát, khám phá tinh tế. Với Đào, ông không muốn diễn tả nỗi đau nhân thế mà muốn bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào sự biến đổi của số phận con người. Đào là hình tượng điển hình cho những người biết vượt qua ranh giới, đứng lên bằng sức mạnh chính mình mà sông để tìm thấy hạnh phúc trong cuộc sống mới.

Thảo luận cho bài: Phân tích truyện ngắn Mùa Lạc của Nguyễn Khải