Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
Phân tích tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Đề bài: Phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng.
Bài làm
Sau một thời gian dài dồn sức cho hai cuộc kháng chiến vệ quốc đi đến thắng lợi, nhân dân ta trở lại quỹ đạo đời sống thời bình với muôn vàn khó khăn bỡ ngỡ. Những quy luật bất thường đã làm nên đặc trưng văn hoá thời chiến giờ không còn phát huy ảnh hưởng nữa. Con người phải đối diện với nhu cầu cơm áo. Đời sống dần lộ ra những phức tạp, bất ổn : nhiều chuẩn mực trở nên lỗi thời, mối quan hệ cá nhân – cộng đồng không đơn giản một chiều như trước, đòi hỏi phải được nhận thức lại. Những biến động dữ dội từ các nước Đông Âu, sự manh nha của nền kinh tế thị trường đầu thập kỉ tám mươi,… làm nảy sinh biết bao câu hỏi nhức nhối về niềm tin, về cách sống. Tất cả đều đang báo trước nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước sẽ được Đảng chính thức phát động năm 1986. Có thể gọi đây là buổi giao thời của hai giai đoạn lịch sử với sự cọ xát, va chạm của các quan niệm, các hệ giá trị cũ – mới. Nhạy cảm với thời cuộc, một số nhà văn đã kịp thời đưa được hơi thở nóng hổi của hiện thực vào tác phẩm. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng là trường hợp tiêu biểu. Cùng với Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và vài ba nhà văn khác, Ma Văn Kháng đã chuyển mối quan tâm từ bình diện các sự kiện lịch sử – chính trị sang bình diện sinh hoạt thế sự, đưa những trăn trở về văn hoá, đạo đức vào trung tâm soi ngắm, khám phá. Mùa lá rụng trong vườn như nhiều ngưởi đánh giá, là hành trình đi tìm câu trả lời cho vấn đề bức thiết : Mỗi con người, mỗi gia đình sẽ phải sống như thế nào trong hoàn cảnh bộn bề hiện tại ?
Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, có thể coi là một áng văn đẹp, chuyển tải thành công những suy tư, trăn trở đầy trách nhiệm của tác giả trước một đô thị đang từng giờ từng phút quẫy cựa, tung phá ra khỏi cái trật tự đã trở nên bức bối trì trệ. Đây thật sự là những trang tươi sáng, cảm động nhất của cuốn truyện mang đậm sắc thái bi kịch nhân văn này. Từ khi nào, cái gia đình nhiều thế hệ vốn yên ấm, thuận hoà của ông giáo Bằng bắt đầu xuất hiện những vết rạn, rồi lung lay, chao đảo ? Vì lẽ gì mà một người vợ đám đang, rất yêu và hãnh diện về chồng như Lí sinh ra bất mãn với gia đình, lao vào những cám dỗ tầm thường ? Sự “nổi loạn” của Cừ – người con trai thứ tư của ông Bằng – đưa anh ta từ lỗi lầm này đến lỗi lầm khác rồi kết thúc bằng cái chết tuyệt vọng, có căn nguyên sâu xa từ đâu ?,… Giữa những bức xúc về đói nghèo, về công bằng, tiến bộ, gây nên “cơn sốt vỡ da” của xã hội thời hậu chiến đang làm lung lay nhiều mái ấm gia đình, có biết bao vấn đề cần được xem xét lại một cách tỉnh táo, trong đó có nhu cầu khẳng định giá trị cá nhân và giữ gìn các chuẩn mực văn hoá. Câu chuyện khép lại khi những người con ông Bằng, sau đám tang cha, đang cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn lại những rạn vỡ trong các môi quan hệ vợ – chồng, anh – em, chú – cháu,… khá phức tạp. Bức thư tuyệt mệnh đầy ăn năn của Cừ, sự trả giá đau đớn của Lí, lòng vị tha của Hoài, tình yêu trong sáng của Cần và bản lĩnh văn hoá của những trí thức như Cần, Luận, Phượng liệu có hứa hẹn môt tương lai sáng sủa hơn ?
Đặt khung cảnh ngày Tết sum họp ở phần đầu tác phẩm, sau sự kiện gia đình vừa nhận tin Cừ bó trốn ra nước ngoài, và mấy anh em Đông, Luận bàn cách giấu cha vì sợ ông Bằng không chịu nổi cú sốc này, Ma Văn Kháng vừa giúp bạn đọc sớm tiếp cận chủ đề tác phẩm vừa tạo được hiệu quả thẩm mĩ đáng kể khi khơi dậy ở người đọc nỗi lo âu và cảm giác nuối tiếc vô ngần trước sự phôi pha, băng hoại của những giá trị cổ truyền, để rồi từ bữa Tết sum họp này đã không còn toả hơi ấm trong gia đình ông Bằng nữa. Ngày Tết ấy sẽ trở thành biểu tượng cho tình người, cho cái đẹp tâm linh mà con người thời hiện đại phải khắc khoải tìm về để tự cân bằng nhịp sống căng thẳng và quá nhiều lí tính.
Khẳng định những giá trị cổ truyền, tác giá muốn đề xuất một định hướng văn hoá làm chuẩn cho sự phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu giải phóng cá nhân, đồng thòi lí giải vai trò to lớn của gia đình đối với quá trinh hình thành nhân cách con người, gián tiếp đối thoại với quan niệm đạo đức một thời quá nhấn mạnh vào ý thức cộng đồng : “hình như có thời kì người ta có ảo tưởng là có thể coi nhẹ các quan hệ gia đình. Các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em,… hình như không có gì phải bàn bạc nữa” (lời Luận). Khuynh hướng củng cố gia đình, gia tộc, theo Ma Văn Kháng, là “dựa vào một nền tảng tinh thần vững bền để chống lại tất cả cái xấu đang làn phá cuộc sống”.
Chu đề tư tưởng toát lên từ khung cảnh sinh hoạt thân thuộc mà rất đỗi thiêng liêng. Thiên nhiên cũng chuẩn bị sẵn cho con người tâm thế giao hoà. Bữa cúng tất niên là thời điểm đặc biệt với mỗi người Việt Nam. Nó là sự kết thúc để khởi đầu cho một năm mơ ước và phấn đấu. Người người hân hoan hướng về nguồn cội bày tỏ tri ân và mong được tiên tổ phù hộ độ trì. Khổng gian Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh ấm cúng mà trang trọng. Cách chọn thời điểm như vậy tập trung được nhiều nhân vật, bộc lộ được nhiều tính cách, tàm sự mà vẫn thống nhất ở định hướng : làm gì để nuôi dưỡng căn cốt văn hoá của con người.
Mô tả một ngày Tết sum họp, ngòi bút Ma Vần Kháng như thăng hoa trong nhiệt hứng tạo dựng không khí điển hình của một cái Tết cổ truyền. Từng chi tiết được chọn lựa kĩ lưỡng, từng động tác, từng lời của nhân vật đều có khả năng hé mở tâm tính và tâm trạng. Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh với không khí đặc trưng bới sự âm cúng, sum họp. Bữa cúng tất niên trong gia đình ông Bằng rõ ràng là còn phán chiếu nhiều nét đẹp chung của truyền thống dân tộc. Nét đẹp đó hiện ra trên cá bình diện vật chất lẫn tinh thần . Lễ cúng bài bản, trang trọng theo đúng nghi thức với khói trầm ngát thơm, bánh chưng xanh buộc lạt điều, mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xắn rải ngang trước bàn thờ, ngọn đèn dầu lim dim,… Có sự thành kính nghiêm cẩn, thiêng liêng một dòng chảy mơ hồ mà xao động đến rưng rưng cảm động. Đó là thời khắc giao hoà giữa hai thế giói : quá khứ và hiện tại, thực và ảo, sống và chết, cõi dương và cõi âm, cõi người và cõi hồn, thể xác và tâm linh,… Bức ảnh những thành viên đã khuất trong gia đình (hình ảnh bà Bằng, anh cả Tường) như khơi lại quá khứ, mở ra cuộc giao cảm kì lạ : “Khói hương và khung cảnh trầm tĩnh đưa hiện tại về quá khứ. Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao”. Giây phút này con người như được thanh tẩy để trở nên tinh khiết, đau đáu niềm hướng thiện. Lời khấn của ông Bằng là tình cảm thiết tha hướng về cội nguồn bằng tất cả lòng biết ơn trân trọng và tâm nguyện đắp bồi, củng cố mái ấm gia đình giữa bao sóng gió. Trong lời khấn ấy có một sợi dây bí ẩn nối kết mọi người, cả kẻ sống người chết, kẻ có mặt và người vắng mặt : dòng chảy của đạo lí, của tình yêu thương chung thuỷ, của ý thức làm người. Quá khứ không tách rời với hiện tại. Tổ tiên luôn đi cùng con cháu. Tất cả liên kết thành sức mạnh, thành niềm tự hào và trách nhiệm. Nhà văn đã nhìn ra cái gốc gác, cái nền tảng sâu xa gắn bó mỗi cá thể là truyền thống gia đình. Lời khấn của ông Bằng không chỉ hướng đến tri ân người đã khuất, tri ân tổ tiên mà còn tri ân những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Những từ ngữ cổ kính, mang phong cách tôn giáo hoá (“Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu…”) in đậm dấu ấn nhà nho mẫu mực. Nhà nho ấy quay trở về cõi thực, dù trong bầu không khí đoàn tụ, ấm cúng cũng không sao giấu được nỗi đau làm tổn hại danh dự tổ tiên. Ông Bằng mắt “cay sè”, lòng “bổn ngộn” khi nghĩ đến người con út tha hoá, tự cô lập mình bằng lối sống bất cần, trở thành kẻ chối từ gốc gác, dối cha lừa vợ. Ông lặng lẽ mà quyết liệt khi gạt tên Cừ (người con lạc loài ấy) ra khỏi lời khấn xin tổ tiên phù hộ. Có lẽ trong ông, nỗi đau vì truyền thống gia đình bị vấy bấn còn lớn hơn nỗi đau của người cha mất con. Chi tiết này khiến ngày Tết sum họp năm nay của gia đình ông như là “khúc vĩ thanh” của sự đầm ấm, bình yên, báo trước những bi kịch không lường hết của cuộc sống thời buổi kinh tế thị trường. (Có người nói Ma Văn Kháng đã bày “mặt trận” giữa một gia đình bé nhỏ chí có thứ vũ khí thuần tuý là đạo đức và văn hoá với những tác động tiêu cực của cả một xã hội đang trong cơn “trở dạ”).
Có một xúc cảm thật đẹp được gợi lên từ mâm cỗ tất niên : lòng kính trọng tổ tiên, niềm âu yếm dành cho anh em, con cháu, bạn bè, tình yêu cuộc sống, nét tài hoa,… đều được con người gửi vào mâm cỗ ấy (Lí và mọi người đã tính toán công phu, đã nỗ lực hết mình để có thể chu toàn). Nó phải thoả mãn đủ các tiêu chí : đầy đặn gợi sự no ấm, đẹp đẽ gợi sự lịch lãm, sang trọng gợi niềm thành kính;… Dường như văn hoá ẩm thực của người Việt, mà nổi tiếng là của người Hà Nội đã tập trung trọn vẹn trong mâm cỗ tất niên nhà ông Bằng : gà luộc, giò, nem, chả, măng hầm chân giò, miến nấu lòng, vịt quay ướp húng lìu, gà tần hạt sen,… Người ta không chỉ ăn bằng miệng mà còn ngắm bằng mắt, không chỉ cốt cho no mà còn thưởng thức cái tinh tế, cái tài hoa, cái đảm đang của người làm cỗ, cái kì diệu của hương vị sản vật quê hương xứ sở.
Sức mạnh tâm linh khiến cho các nghi thức cúng bái ngày Tết trở thành thiêng liêng, hấp dẫn. Nó như một dòng chảy thầm thì mà bí ẩn dẫn lối cho con người tìm về nguồn cội, tắm mình trong tình thương yêu, đùm bọc chở che của quan hệ máu mủ ruột rà. Nó hoá giải mọi cách bức thế tục. Sự xuất hiện của chị Hoài và thái độ mừng rỡ vừa vồn vã, sôi nổi, vừa ý nhị, xót xa của mọi người là đỉnh điểm hạnh phúc sum họp. Bữa cỗ tất niên thành bữa tiệc đoàn viên, bữa tiệc của lòng người. Hoài hiện ra đột ngột không báo trước (chị đã đi bước nữa do anh Tường chồng chị hi sinh từ thời đánh Mĩ) không chỉ đem lại niềm vui ngỡ ngàng cho các thành viên gia đình ông Bằng mà còn khiến người đọc cũng thấy rưng rưng. Hoá ra chỉ cần có tấm lòng, chỉ cần biết nghĩ về nhau là thế giới vụt ấm áp, thơm thảo, là bất hạnh vợi bớt, nỗi đau mất mát được xoa dịu. Hai người em dâu (Lí và Phượng) ao ước được gặp chị Hoài thì sung sướng, “reo lên”, ríu rít, hồn nhiên như, hai đứa trẻ. Phượng “sôi nổi, nồng hậu”, “mừng rỡ”, “nắm tay”,… Lí “ôm chầm” lấy chị “nức nở”. Những lời hỏi thăm, những câu trò chuyện tới tấp,… Mọi người đều muốn biết công việc làm ăn, sức khoẻ của nhau – một cách quan tâm rất giản dị mà hậu tình , xa lạ với thói ích kỉ, lạnh lùng đang có nguy cơ thành phổ biến trong giao tiếp thời hiện đại. Xúc động nhất là cảnh gặp gỡ giữa ông Bằng và chị Hoài. Ông Bằng sững lại, “mật thoáng một chút ngơ ngẩn”, mắt “chớp liên hồi”, môi “lật bật không thành tiếng”, như “sắp khóc oà”, “giọng khê đặc, khàn rè”,… Còn chị Hoài thì “gần như không chủ động được mình”, “lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản, gót nứt nẻ thâm đen, giẫm trên nền đá lạnh”, “thốt lên một tiếng như nấc”. (Cái vẻ cuống quýt của Hoài mới đáng quý làm sao! Nếu chị không vì hấp tấp mà quên đi dép, làm sao mọi người thấy hết cuộc sống lam lũ của chị ?). Nỗi xúc động không chỉ do xa cách quá lâu, hay do sự gặp gỡ bất ngờ mà chủ yếu xuất phát từ tình cha con họ dành cho nhau. Trong niềm vui đoàn tụ, nhói buốt một cái tên, một hình bóng không ai nỡ thốt ra. Hai cha con gặp nhau mà như đang đón nhận lại nhau, như bị cái tình ruột thịt thiêng liêng dẫn dắt một cách vô thức, không sao kiểm soát được hành động và cảm xúc. Cảnh tượng cảm động này lan truyền ra xung quanh, khiến “Phượng quay mặt đi, mắt ngấn lệ, không nở nhìn cảnh gặp gỡ, không nỡ thấy đôi gót chân nứt nẻ của chị Hoài, ngực dội lên những cơn sóng nghẹn ngào và hai cánh mũi se se cay”. Biệt tài của Ma Văn Kháng trong miêu tả tâm lí là lấy cảm xúc này để khơi gợi cảm xúc khác, lấy tình thương để kêu gọi tình thương (Phượng ứa nước mắt trước đôi gót chân nứt nẻ của Hoài còn người đọc ứa nước mắt vì tấm lòng đồng cảm tinh tế của Phượng). Tình yêu thương biểu hiện qua phút gập gỡ, sum họp của một gia đình đã thể hiện tập trung nét đẹp trong văn hoá ứng xử, văn hoá sống của người Việt Nam : coi trọng đạo lí, tình cảm. Khắc họa không khí chung, nhà văn còn tạo “điểm nhấn” và “dư ba” bằng việc đưa lên “cận cảnh” chân dung những con người có tâm hồn nhân hậu, biết nuôi dưỡng ngọn lửa ấm trong mỗi gia đình (Phượng, Hoài và ông Bằng).
Chị Hoài tiêu biểu cho vẻ đẹp cúa người nông dân chất phác, xởi lởi, thật thà nhưng cũng không kém hiểu biết và bao dung. Chị “đẹp người, đẹp nết”, “dù đã có gia đình riêng, những quan hệ riêng và lo toan riêng” nhưng vẫn không quên căn nhà đã từng ghi dấu một thời hạnh phúc và đau khổ của chị, “chị có quyền quên mà không ai được trách cứ”. Chín năm xa cách, chị vẫn nguyên ý thức của người dâu cả, không cho mình quyền quên gia đình người chồng cũ, vẫn giữ liên lạc để biết tình hình của mọi người. Tạm gác lại công việc bộn bề của gia đình riêng, chị trở lại nhà ông Bằng đúng dịp đón năm mới là bời chị biết gia đình có chuyện không hay và nhất là “sợ ông buồn”. Hoài khiến Phượng “cảm kích bất ngờ” khi nhận ra “người phụ nữ tướng như đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẽ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này”. Hoài hiện thân cho lối sống trọng nghĩa tình, “có thuỷ có chung”, như tấm gương mà khi soi vào đấy, nhiều người phải giật mình. Sự xuất hiện của chị tác động mạnh vào các thành viên khác của gia đình ông Bằng. Không chỉ vậy, người phụ nữ ấy bằng tình yêu thương nồng hậu còn gắn kết cả cái gia đình mới của mình với gia đình cũ. Chồng con chị cũng yêu thương và quan tâm tới gia đình ông Bằng. Họ lấy tình nghĩa làm phương châm ứng xử. Tấm lòng trưng hậu của họ xoá tan mọi nỗi hoài nghi về quan hệ “khác máu tanh lòng”. Ông Bằng cũng là một nhân vật lí tưởng của Ma Văn Kháng. Là người luôn lo lắng cho sự bền vững gia đình, hơn ai hết, ông ý thức được những nguy cơ làm suy thoái đạo đức, làm rạn nứt truyền thống quý báu mà ông muốn bảo toàn. Ông thường xuyên trăn trở về mối quan hệ giữa gia đình và xã hội. Nét ưu tư trầm mặc toát lên từ hình dong của ông đồ – một nhà hiền triết, từ cách ăn mặc trầm nghiêm, chỉnh tề, nhưng nhiều hơn cả là từ cách ứng xứ, từ lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng mà đắn đo cẩn trọng và một đời sống tâm linh vững vàng. Những đoạn độc thoại nội tâm của ông thể hiện rõ ý thức di dưỡng tinh thần hướng về cội nguồn vân hoá dân tộc. Ông là mắt xích chính nối kết gia đình ấy với quá khứ và những giá trị nhân văn tốt đẹp. Ông như một biểu tượng của trí thức, bổ sung vào cái văn hoá thôn quê chất phác của Hoài. Hai con người ấy xuất hiện trong đoạn trích để tôn lên vẻ đẹp của nhau và lan toả ánh sáng hướng thiện sang những thành viên khác, hoàn tất trọn vẹn tiêu chí nhân cách mà nhà vãn đề xuất.
Ma Văn Kháng không thật sự sắc sảo trong tiểu thuyết, nhưng Mùa lá rụng trong vườn là một thành công quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nó xứng đáng được ghi nhận như một tác phẩm chứa nhiều dự cảm sáng suốt về thời cuộc và về văn chương ở thời điểm nó ra đời. Tác phẩm đánh dấu sự trở về với những đề tài có tính phổ biến trong văn chương nhân loại, sự gia tăng “chất tiểu thuyết” cho tiểu thuyết Việt Nam vốn vừa đi qua một giai đoạn thiên về chất sử thi – lãng mạn. Tác phẩm có cốt truyện và cách kể chuyện khá đơn giản, dung dị. Điều quan trọng là nhà văn đã “bắt” được rất nhạy nhu cầu mới của công chúng : đòi hỏi văn chương phải gần gũi với hiện thực hon, “đời” hơn. Trong những chuyện thường ngày, ông phát hiện ra bao điều nghiêm túc, sâu sắc. Từ cánh sum họp ngày Tết, nhà văn cho chúng ta nhìn thấy vẻ đẹp của văn hoá truyền thông, thấy vai trò của gia đình như một nền tảng vững chắc của nhân cách cá nhân. Nếu đọc toàn bộ cuốn tiểu thuyết, chúng ta còn thấy nhân vật của Ma Văn Kháng không chỉ được khai thác sâu, tinh tế về mặt tâm lí mà còn được chú ý nhiều ở khả năng tự ý thức, biết sử dụng một thứ ngôn ngữ giàu luận lí nhưng cũng rất cá tính, linh hoạt. Chất triết lí trong tiếu thuyết của ông không đậm đặc như ở Nguyễn Khải nhưng cũng luôn có ý nghĩa chi phối cách tổ chức trần thuật. Văn của Ma Văn Kháng lột tả khá trung thực cái không khí thời đại mà các nhân vật sống.
Vì tác phẩm chú trọng vào tàm lí nhân vật, nên điểm nhìn trần thuật bắt đầu được di chuyển sang nhân vật. Người kể chuyện nhập vào nhân vật để thuật kể, bình luận và điểm nhìn này thay đổi rất linh hoạt (từ người kể chuyện ngôi thứ ba giấu mặt sang Luận, ông Bằng, có lúc là Lí, Cần, Cừ,…). Đây là quan điểm trần thuật hiện đại, mở ra khả năng thể hiện thế giới nội tâm phong phú, tạo sự đa dạng cho điểm nhìn, tăng cường tính dân chủ, kích thích dối thoại.
Đoạn trích dựa trên nển cốt truyện, ít biến cố, mà chủ yếu bộc lộ tâm trạng, tâm linh nên nhịp điệu trần thuật chậm rãi, tương hợp với giọng văn trầm lắng, dạt dào cảm xúc, đậm đặc nghĩa tình. Ngày Tết sum họp kết thúc bằng dư âm của niểm vui, niềm tin tưởng, dù không hoàn toàn nhẹ nhõm, thanh thản. Ma Văn Kháng đã gửi gắm vào đây quan niệm của ông về chuẩn mực văn hoá gia đình – thứ vũ khí mà mỗi gia đình hiện đại cần phải có để có thể đề kháng, chống chọi lại với những va đập của một xã hội đầy biến động.