Phân tích đoạn trích Chiến thắng Mtao-Mxây
Đề bài: Phân tích bài Chiến thắng Mtao-Mxây (Trích Đăm Săn – sử thi Tây Nguyên)
Bài làm
Từ trước đến nay, khi nghiên cứu sử thi, các nhà nghiên cứu thường coi sứ thi là đối tượng của nghiên cún văn học mà quên mất rằng một trong những đặc điểm của sử thi là nó vẫn tồn tại một cách sinh động trong đòi sống của các dân tộc, noi nó được sinh thành và lưu giữ. Sử thi đối vói đồng bào Tây Nguyên không phải chỉ là một loại hình ngôn từ dân gian mà nó là loại hình diễn xướng dân gian, bao gồm cả nghệ thuật ngôn từ, ca hát, nhảy múa, nghĩa là nó ít nhiều mang tính chất của nghệ thuật sân khấu trình diễn. Nghiên cứu sử thi mà bỏ qua yếu tố diễn xướng tức là ta đã bỏ qua một bộ phận có ý nghĩa quan trọng về mặt văn hoá, đời sống. Phương thức diễn xướng sử thi là phương thức khá phổ biến và thống nhất ở mọi dân tộc có sử thi trên thế giới.
Sử thi là những tác phẩm có dung lượng lớn, nếu diễn xướng phải mất vài đêm mới hết. Diễn xướng sử thi đòi hỏi một thòi điểm, một không gian đặc biệt phù họp. Môi trường sinh hoạt quen thuộc của diễn xướng sử thi là môi trường lễ hội. Lễ hội đảm bảo không khí “thiêng”, không khí cộng đồng cần thiết cho diễn xướng sử thi, vì nhân vật trung tâm của sử thi là những anh hùng có tầm vóc kì vĩ đại diện cho sức mạnh cộng đồng, được nhân dân tôn sùng, ngưởng vọng. Mùa lễ hội của dân tộc Tây Nguyên cũng như của các cư dân nông nghiệp khác, thường vào mùa nông nhàn, khoảng cách giữa của vòng quay chu kì sản xuất nông nghiệp, ở Tây Nguyên, đó là khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 3 âm lịch – khoảng thời gian mà thời tiết thuộc mùa khô chuẩn bị bước vào mùa mưa. Người dân được tận hưởng một khoảng thời gian rảnh rỗi, có lương thực dồi dào tích trữ cho cuộc sống và làm lễ vật phục vụ cho các nghi lễ cần thiết. Nghệ nhân kể sử thi đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc lưu giữ, sáng tạo và trình diễn tác phẩm. Những nghệ nhân này hầu hết là những người không biết chữ nhưng họ có khả năng nhớ một cách kì lạ những tác phẩm sử thi dài hàng ngàn, hàng vạn câu, họ có bề dày tri thức dân gian đa dạng của dân tộc mình. Lễ hội cũng là nơi thu hút du khách ở khắp nơi đến tham dự, tại các địa điểm sinh hoạt cộng đồng, quanh bếp lửa nhà rông. Sau nghi lễ ngoài trời, mọi người quây quần bên bếp lửa, bên vò rượu cần. Nghệ nhân kể khan ngồi bên bếp lửa và bắt đầu kể chuyện. Người nghe có khi đông đến nỗi phải ngồi ra phần sau ở ngoài trời. Thời gian tốt nhất để bắt đầu một cuộc diễn xướng sử thi là vào buổi tối. Có tài liệu ghi lại người chứng kiến buổi diễn xướng sử thi kể rằng : mọi người đến tham dự rất đông, họ ngồi suốt đêm, nghe say sưa đến nỗi, tối hôm trước họ ngồi thế nào thì sáng hôm sau vẫn thấy họ ngồi y nguyên như vậy.
1. Đặc điểm nội dung
Hình tượng Đăm Săn – người anh hùng lí tưởng của cộng đồng thị tộc Ê-đê – trong cuộc giao tranh với tù trưởng Mtao Mxây để giành lại vợ được tập trung khắc hoạ rõ nét theo bố cục ba phần, tương ứng với ba câu hỏi trong SGK:
- Cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây.
- Cảnh Đăm Săn cùng tôi tớ trở về sau chiến thắng.
- Cảnh Đăm Săn cùng thị tộc ăn mừng chiến thắng.
a) Cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây
Cuộc chiến đấu giữa hai tù trưởng được mô tả cặn kẽ theo trình tự các hiệp đánh. Ưu thế nổi trội của thể loại sử thi so với một số thể loại văn học dân gian khác là có sự kết họp hài hoà giũa kể chuyện và miêu tả. Ngôn ngữ kể chuyện đan xen với ngôn ngữ đối thoại giữa hai nhân vật càng làm tăng thêm kịch tính, giúp người nghe hiểu sâu hơn đặc điểm tính cách nhân vật.
– Đăm Săn khiêu chiến kẻ thù và thái độ ngạo mạn của Mtao Mxây:
Tù trưởng Mtao Mxây lừa lúc Đăm Săn cùng dân làng làm rẫy, đã kéo đến cướp phá buôn làng và bắt Hơ Nhị về làm vợ. Danh dự của một tù trưởng và bộ tộc bị xúc phạm, hạnh phúc gia đình và buôn làng bị đe doạ, Đăm Săn buộc phải cầm giáo đứng lên chiến đấu đòi lại công bằng.
Băng giọng tự tin vào sức mạnh của mình và sự khinh miệt, giễu cợt kẻ thù, Đăm Săn đã tìm cách khiêu chiến và buộc Mtao Mxây phải giao chiến : “ơ điêng, ơ điêng, xuống đây ! Ta thách nhà ngươi đọ dao với ta đấy !”, “Ngươi không xuống ư ? Ta sẽ lấy cái sàn hiên của nhà ngươi ta bổ đôi…”. Kịch tính tăng lên khi Mtao Mxây cũng trêu tức Đăm Săn : “Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà”. Nhưng ngay từ đầu, trong ngôn từ của Mtao Mxây cũng thể hiện sự nghi ngại, thiếu tự tin trước Đăm Săn : “Ta sợ ngươi đâm ta khi ta đang đi tắm”.
– Cuộc chiến giữa hai tù trưởng:
Để thể hiện cuộc giao chiến giữa hai tù trưởng, tác giả dân gian đã sử dụng triệt để phương pháp so sánh tương phản, cấu trúc ngôn ngữ trùng điệp, lối so sánh sinh động, phép cường điệu, phóng đại nhằm nêu bật sự vượt trội của Đăm Săn về mọi phương diện. Một biện pháp quen thuộc trong các sử thi là luôn miêu tả tài năng của đối phương trước khi miêu tả tài năng người anh hùng. Mtao Mxây múa khiên trước, tiếng khiên của hắn “kêu lạch xạch như quả mướp khô”. Khi Mtao Mxây múa khiên, Đăm Sân vẫn bình tĩnh, không hề run sợ, đứng yên “không nhúc nhích”. Khi chưa nhìn thấy Đăm Săn múa khiên, Mtao Mxây vẫn còn huênh hoang : “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quen đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao ?”. Đối lập với hình ảnh tiếng khiên “lạch xạch như quả mướp khô” của Mtao Mxây, tài múa khiên của Đăm Săn đã được miêu tả cụ thể, sinh động, có sự tăng tiến trong cảm hứng say sưa của người kể chuyện :
+ Lần múa khiên thứ nhất: “Một lần xốc tói, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tói nữa, chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”.
+ Lần múa khiên.thứ hai: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung”. Còn Mtao Mxây thì thể hiện sự kém cỏi cả về thể xác lẫn tinh thần : “bước cao bước thấp, chạy hết bãi tây sang bãi đông. Hắn vung dao chém phập một cái, nhưng chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu”.
Qua việc tập trung miêu tả một cách kĩ lưỡng và sinh động tài nghệ múa khiên của Đăm Săn, tác giả đã khắc hoạ tầm kích vũ trụ, tài năng siêu phàm có thể sánh ngang với các thần linh của Đăm Săn.
Tại sao Đăm Săn vẫn phải cầu viện đến thần linh thì mới tiêu diệt được Mtao Mxây ? Chi tiết Đăm Săn “đớp” được và nhai miếng trầu của Hơ Nhị ném cho làm tăng thêm chất trử tình của tác phẩm. Còn chi tiết khi thấm mệt, chàng mộng thấy ông Trời mách bảo (lấy một cái chày mòn ném vào vành tai hắn là được), không hạ thấp tài năng của chàng mà càng tăng thêm thanh thế, uy danh của chàng vì chàng là một tù trưởng được thần linh ủng hộ. Quan hệ giữa thần linh với Đăm Săn thật gần gũi, thân tình : “Ối chao, chết mất thôi, ông ơi! Cháu đâm mãi mà không thủng hắn !”. Điều này thể hiện dấu ấn của tư duy thần thoại còn in đậm trong nghệ thuật sáng tạo sử thi. Nhưng ông Trời cũng chỉ là người “mách nước” còn quyết định vẫn là hành động trực tiếp của người anh hùng. Chỉ có Đăm Săn mới tự tay hạ gục được kẻ thù. Lời cầu xin của Mtao Mxây làm tăng tính kịch, nhưng Đăm Săn đã không hề khoan nhượng : “Chẳng phải vợ ta ngươi đã cướp, dùi ta ngươi đã đâm rồi sao ?”. Chàng hành xử với kẻ thù đúng như lối hành xử của các thủ lĩnh thời cổ đại : “Đăm Săn đâm phập một cái, cắt đầu Mtao Mxây đem bêu ngoài đường”. Với người anh hùng sử thi, bị kẻ khác đến cướp vợ tại nhà mình là một hành động xúc phạm vô cùng lớn lao đến danh dự, mà danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất của người anh hùng. Làm sao Đăm Săn có thể tha thứ cho Mtao Mxây được.
b) Cảnh Đăm Săn cùng tôi tớ trở về sau chiến thắng
Có thể thấy rõ đặc điểm trong chiến trận của người anh hùng sử thi : Trong chiến trận, thường chỉ có hai thủ lĩnh giao chiến, tôi tớ, nô lệ dù “đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối” thì cũng chỉ chứng kiến cuộc chiến chứ không tham dự, vì người anh hùng là biểu trưng cao nhất cho lí tưởng, sức mạnh, tài năng và ý chí của cộng đồng, số phận của cá nhân anh hùng ảnh hưởng và thống nhất cao độ với số phận cộng đồng. Đoạn trích không say sưa miêu tả cảnh máu chảy đầu rơi của các chiến binh, của các tôi tớ, nô lệ. Điều này có thể so sánh với truyền thuyết Thánh Gióng của người Việt, với sử thi I-li-át của Hi Lạp. Thủ lĩnh chiến thắng, thu nhận tù binh của đối phương, mở rộng địa bàn lãnh thổ, tôi tớ vui mừng chia quả thực, ăn mừng chiến thắng tưng bừng. Thủ lĩnh thua, tôi tớ trở thành nô lệ của thủ lĩnh chiến thắng. Qua lời Đăm Săn hỏi ý kiến tôi tớ của Mtao Mxây sau chiến thắng có thể hiểu thêm tinh thần dân chủ công xã thị tộc thòi cổ đại : “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói ! ơ tất cả tôi tớ bằng này ! Các ngươi có đi với ta không ?”. Việc miêu tả cuộc đối thoại giữa Đăm Săn và dân làng Mtao Mxây được lặp lại ba lần và có sự tăng tiến : Lần thứ nhất, Đăm Săn “gõ vào một nhà”, lần thứ hai “đập vào phên tất cả các nhà trong làng”, lần thứ ba “đập vào phên mỗi nhà trong làng”.
Cả ba lần dân làng trả lời cùng một nội dung, chỉ khác nhau chút ít trong cách nói (ngôn ngữ sử thi đa dạng, có sự thay đổi một vài từ ngữ trong khuôn hình chung, không tạo sự nhàm chán cho người nghe). Ba lần hỏi, ba lần dân làng Mtao Mxây trả lời :
- Trả lời lần 1 : “Không đi sao được ! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai ?”.
- Trả lời lần 2 : “Không đi sao được ! Nhưng bác ơi, xin bác chờ chúng tôi cho lợn ăn cái đã”.
- Trả lời lần 3 : “Không đi sao được ! Làng chúng tôi phía bắc đã mọc cỏ gấu, phía nam đã mọc cà hoang, người nhà giàu cầm đầu chúng tôi nay đã không còn nữa !”.
Biện pháp lặp lại giữa ba lần hỏi – đáp này thể hiện sự thống nhất cao độ giữa khát vọng, quyền lợi cá nhân anh hùng vói khát vọng, quyền lợi của cộng đồng, đồng thời thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn vinh tuyệt đối của dân làng đối với thủ lĩnh. Con số “ba” biểu trưng cho số nhiều vốn rất quen thuộc trong văn học dân gian.
Sau những lần đối thoại là cảnh mọi người đi theo Đăm Săn về làng đông và vui như đi trảy hội. “Đoàn người đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến như mối. Bà con xem, thế là Đăm Săn nay càng thêm giàu có, chiêng lắm la nhiều. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”.
Mỗi cuộc chiến tranh thời cổ đại, dẫu là vì nguyên nhân hôn nhân, trả thù hay chinh phục tự nhiên thì kết quả cũng là sự mở rộng địa bàn, lãnh thổ, thể hiện quá trình liên minh bộ tộc, khiến cho bộ tộc nào đã giàu càng giàu thêm, đã mạnh càng mạnh hơn nữa. Đoạn trích này là một minh chứng sáng rõ, phản ánh lịch sử các bộ tộc trên con đường hình thành dân tộc thời cổ đại.
c) Cảnh Đăm Săn cùng thị tộc ăn mừng chiến thắng
Phần kết thúc đoạn trích này không có lời đối thoại ngắn gọn, đầy kịch tính giữa các nhân vật như hai đoạn trên mà tập trung khắc hoạ ngôn ngữ của Đăm Săn chỉ bảo cho mọi người làm lễ ăn mừng chiến thắng.
– Lời Đăm Săn trong buổi tổ chức ăn mừng chiến thắng thể hiện hai nội dung chính :
+ Đăm Săn rất coi trọng và đề cao ý nghĩa lớn lao của chiến thắng vừa giành được.
Bằng việc sử dụng các đại từ xưng hô (hô ngữ) cùng các kiểu câu cảm thán đậm sắc thái biểu cảm rất đặc trưng của thủ lĩnh thời cổ đại, các hình ảnh so sánh trùng điệp, ngôn ngữ eủa Đăm Săn thật sảng khoái, nhiệt thành kêu gọi buôn làng tổ chức ăn mừng thật lớn để tạ ơn thần linh, tổ tiên và cầu mong thần linh ban cho mình và cộng đồng sức mạnh… Điều này cho thấy niềm tự hào về chiến công vừa giành được. Trong niềm vui đó có niềm tự hào chính đáng về tài năng cá nhân anh hùng đồng thời ước vọng cuộc sống tốt đẹp cho mọi người : “Rượu năm ché, trâu dâng một con để cúng thần, cáo tổ tiên, cầu sức khoẻ cho ta mới đi đánh kẻ thù, bắt tù binh, xéo nát đất đai một tù trưởng nhà giàu về […], cầu cho ta được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp
+ Niềm tự hào về cuộc sống sung túc, thịnh vượng, phát triển mọi mặt của thị tộc mình : “Chúng ta sẽ ăn lợn ăn trâu, đánh lên các chiêng cái trống to, đánh lên các cồng hlong hoà nhịp cùng chũm choẹ xoa sao cho kêu lên rộn rã, để voi đực voi cái ra vào sàn hiên không ngớt”, “Hãy đánh lên các chiêng có tiếng âm vang, những chiêng có tiếng đồng tiếng bạc ! Từ gui quý, hãy lấy ra các vòng nhạc rung lên !”.
- Lời người kể chuyện :
Kết hợp sử dụng ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện một cách trực tiếp là một ưu thế nổi trội của sử thi so với một số thể loại tự sự dân gian khác. Sử dụng ngôn ngữ người kể chuyện là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện trực tiếp thái độ, tình cảm của cộng đồng bộ tộc đối với nhân vật anh hùng sử thi. Trong lời người kể chuyện, hình tượng Đăm Săn được miêu tả một cách trực tiếp, toàn diện từ vẻ đẹp thể chất đến tinh thần.
- Vẻ đẹp thể chất : “Bà con xem, chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”, “Ngực quấn chéo một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”, “Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”.
- Sự giàu có, hùng mạnh của cộng đồng Đăm Săn sau chiến thắng : “Chàng mở tiệc ăn uống linh đình, thịt lợn, thịt trâu ăn không ngớt, thịt lợn ăn đến cháy đen hết ống le, thịt dê ăn đến cháy đen hết ống lồ ô, máu bò máu trâu đọng đen khắp sàn hiên”, “Các chàng trai đi lại ngực đụng ngực. Các cô gái đi lại vú đụng vú […]. Rõ ràng là tù trưởng Đăm Săn đang giàu lên, chiêng lắm la nhiều”.
- Đăm Săn được sự hưởng ứng và ngưỡng vọng tuyệt đối của tất thảy mọi người : “Bà con xem, nhà Đăm Săn đông nghịt khách, tôi tớ chật ních cả nhà ngoài. Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”, “Từ khắp mọi miền, ngưòi ta khiêng rượu khiêng lợn đến”.
Sau cuộc chiến, người ta không chú ý đến cảnh chết chóc mà chỉ hướng đến niềm vui chiến thắng, đến khát vọng một cuộc sống thịnh vượng, buôn làng giàu có, đông vui, hoà bình, phát triển. Ước vọng, lí tưởng của cá nhân người anh hùng thống nhất cao độ vói ước vọng và lí tưởng của cộng đồng.
- Cùng với những hình ảnh miêu tả cụ thể là những lời ngợi ca, sự tôn vinh tuyệt đối về thủ lĩnh anh hùng. Những lời ngợi ca chàng vang lên với những điệp khúc hào hùng: “Vì vậy, danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn”, “chàng Đăm Sãn hiện ra là rhột trang tù trưởng mói giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy […]. Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ”.
Đặt đoạn trích trong hệ thống tác phẩm ta sẽ thấy được tính thống nhất của hành động và lí tưởng người anh hùng. Nhân vật sử thi tiếp nối nhân vật thần thoại nhưng đã được nâng lên một bước cơ bản. Nếu nhân vật chính trong thần thoại là thần thì nhân vật chính trong sử thi là con người. Người anh hùng thể hiện tập trung nhất lí tưởng, sức mạnh, ý chí, tài năng của cộng đồng trong thời kì liên minh bộ tộc, bước đầu hình thành dân tộc. Đối với nhân vật sử thi, điều quan trọng cần khai thác không phải chỉ là bản thân hành động mà quan trọng hơn là mục đích và ý nghĩa của hành động. Con người lần đầu tiên nhận thức được sức mạnh của mình trên chặng đường chuyển giao lịch sử vĩ đại nhất thòi cổ đại. Vì thế, các nhân vật trung tâm trong sử thi luôn là người anh hùng lí tưởng, được miêu tả vói niềm ngưỡng vọng vô cùng lớn lao của cộng đồng, được nhân dân tô điểm bằng vô vàn ánh hào quang kì diệu bởi những chiến công, tài năng và sức mạnh. Lần đầu tiên con người đã tự “nâng mình lên ngang hàng thần thánh” (Ăng-ghen).
- Đoạn trích cho ta hiểu thêm về một số sinh hoạt và phong tục của dân tộc Ê-đê xưa, như cách bài trí nhà Mtao Mxây (Đầu sàn hiên đẽo hình mặt trăng, đầu cầu thang đẽo hình chim ngói), cách trang phục của tù trưởng Đăm Sặn (Ngực quấn chéo một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ…), tập quán trong giao tiếp, nói năng, đặc biệt là cách nghĩ, cách cảm của họ.
2. Đặc điểm nghệ thuật
Như đã nêu ở trên, sử thi Tây Nguyên thuộc thể loại tự sự dân gian mang tính nguyên họp, trong đó tích họp các yếu tố nghệ thuật như ngôn ngữ (văn xuôi và vãn vần), âm nhạc, yếu tố trình diễn. Các yếu tố này gắn bó rất hài hoà tạo nên vẻ đẹp độc đáo của các tác phẩm sử thi.
Biện pháp khoa trương, ngoa dụ được sử dụng triệt để trong việc miêu tả người anh hùng lí tưởng của bộ tộc, làm cho người anh hùng đẹp toàn diện, đẹp tuyệt đối từ lí tưởng, thể chất và hành động.
Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của sử thi anh hùng rất đa dạng. Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật được sử dụng nhiều và linh hoạt, giàu kịch tính. Ngôn ngữ của người kể chuyện sinh động, hấp dẫn. Việc sử dụng hàng loạt các biện pháp nghệ thuật so sánh, ví von, ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu rất gần với lời ăn tiếng nói của đồng bào các dân tộc ít người tạo nên sự đối xứng hài hoà rất thú vị trong câu vãn, trong đoạn văn và trong cả tác phẩm có sự liên kết chặt chẽ, giũa các vế trong một câu : “Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước”.
Một trong những yếu tố tạo nên sự hài hoà, nhịp nhàng trong hình tượng nghệ thuật là kết cấu đối xứng được sử dụng rất phổ biến trong sử thi Tây Nguyên. Bất cứ đoạn văn nào chúng ta cũng có thể gặp được sự đối xứng ấy : đối xứng về số lượng, đối xứng về hành động, đối xứng về cảnh vật. Ví dụ, khi miêu tả cảnh Đăm Săn múa khiên : “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc”, “Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ”. Lòi dân làng : “Làng chúng tôi phía bắc đã mọc cỏ gấu, phía nam đã mọc cà hoang”. Sự hài hoà và nhịp nhàng ở những vế, những câu, nhũng hình tượng như vậy được phát triển thành những điệp khúc mà ta thường gặp trong tác phẩm. Những điệp khúc đó được gọi là “tính trì hoãn sử thi” tạo nên những khuôn mẫu bền vững, chúng gây nên ảnh hưởng ít nhiều đến sự linh hoạt của tác phẩm, nhưng lại thuận lợi cho việc diễn xướng và dễ tạo nên một khung cảnh bề bộn, trùng điệp, hoành tráng rất cần thiết trong các sử thi anh hùng.