Phân tích chứng minh tính dân tộc trong thơ Tố Hữu
Đề bài: Thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc. Anh chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên.
Hướng dẫn làm bài
Tố Hữu (1920 – 2002) được tôn vinh là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông đã đưa vào thơ một phong cách mới của tâm hồn gắn bó, hòa hợp sâu xa với nhân dân, đất nước trong suốt chặng đường lịch sử dài hơn nửa thế kỉ. Làm nên phong cách ấy trước hết là lẽ sống đúng đắn, là tình cảm dạt dào cùng với bao nỗi niềm riêng chung của con người thi sĩ – chiến sĩ trong cuộc đời đấu tranh cách mạng. Có ý kiến cho rằng: Thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc.
Đó là một nhận xét chính xác và tinh tế. Thơ Tố Hữu có sức lay động quần chúng rất lớn trước hết vì thơ ông dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thuộc. Đó là những đặc tính của thơ ca truyền thống. Nhà phê bình nghiên cứu văn học Hà Minh Đức viết: “Đã trên nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu vẫn là tiếng nói tâm tình gần gũi với bạn đọc. Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đòn, mỗi tập thơ đều ghi lại chân thành tấm lòng của tác giả và hình bóng của cuộc đời. Đó là tấm lòng gắn bó với dân tộc của nhà thơ cách mạng và những sự kiện lớn diễn ra trên đất nước đều được in khá đậm nét trong thơ Tố Hữu”.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu thể hiện hài hòa ở nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, ở tâm hồn và cách thể hiện cảm xúc. Xuất thân từ một gia đình có học ở Huế – một vùng đất sơn thủy hữu tình giàu truyền thống văn chương và truyền thống cách mạng, Tố Hữu giác ngộ cách mạng rất sớm, vừa hoạt động chính trị vừa sáng tác thơ ca. Con người chiến sĩ và con người thi sĩ hòa làm một, tạo nên hồn thơ vừa sôi nổi, nồng nàn, vừa thiết tha, sâu lắng. Trong hàng ngũ các nhà thơ cách mạng, Tố Hữu lúc nào cũng là người đi đầu. Các vấn đề trọng đại của lịch sử dân tộc luôn được tác giả phản ánh trong thơ ca với tinh thần trách nhiệm của một chiến sĩ và trái tim nhạy cảm của một thi sĩ. Nội dung nổi bật trong thơ Tố Hữu là tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người Việt Nam.
Chất dân tộc hình thành rất sớm trong con người Tố Hữu. Cội nguồn của nó là tình yêu quê hương, xứ sở tha thiết
Huế ơi, quê mẹ của ta ơi Nhớ ừ ngày xưa, tuổi chín mươi Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi… (Huế – Quê mẹ)
Hình ảnh quê hương thân yêu lúc nào cũng hiển hiện trong nỗi nhớ cháy lòng của nhà thơ:
Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín, trái cày ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không… (Khi cọn tu hú) Xa quê, hình ảnh dòng sông Hương luôn quấn quýt trong trái tim thi sĩ: Hương Giang ơi, dòng sông êm Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình. (Bài ca quê hương)
Trước Cách mạng tháng Tám, nhà thơ Tố Hữu khẳng định lẽ sống của con người là lí tưởng độc lập, tự do và đã cụ thể hóa cảm giác thiêng liêng khó tả của mình khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng bằng nghệ thuật ẩn dụ so sánh thường thấy trong ca dao xưa:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim… (Từ ấy)
Người thanh niên yêu đời, yêu nước cảm thấy tâm hồn mình phơi phới, rạo rực, tưng bừng như một vườn hoa lá xanh tươi muôn màu sắc và rộn tiếng chim ca. Sau khi giác ngộ lí tưởng cách mạng, nhà thơ hiểu sâu hơn về tình giai cấp, tình dân tộc và mối quan hệ giữa dân tộc với thời đại. Nhà thơ khẳng định chỉ có cách mạng là con đường duy nhất giải phóng nhân dân ra khỏi cảnh tối tăm, nô lệ, mới trả lại quyền sống thực sự cho mỗi con người. Trong tập thơ Từ ấy, những số phận bất hạnh, khổ đau được Tố Hữu nhắc đến với tấm lòng thông cảm và thương xót chân thành. Đó là em bé mồ côi:
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
Hai đứa cùng đau khổ
Cùng vất vưởng bê tha. (Mồ côi)
Đó là người kĩ nữ đáng thương bị vây bủa trong cuộc sống quẩn quanh, bế tắc:
Trăng lên trăng đứng trăng tàn Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng Thuyền em rách nát Mà em chưa chồng. (Tiếng hát sông Hương) Đó là ông lão sống cô đơn, mỏi mòn trong nghèo khổ: Lão ngồi bên cửa sổ Trong nắng nhạt chiều thu Còng lưng đan chiếc rổ Mai bán lấy vài xu. (Chiều) Đó là người vú em vì cơ cực mà phải dứt tinh mẫu tử: Nàng gửi con về nương xóm cũ Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi Rồi từ hôm ấy, ôm con chủ Trong cánh tay êm, luống ngậm ngùi. (Vú em)
Nhà thơ gọi giai cấp cần lao bằng những tiếng gọi đầy tình thương mến : bạn đời ơi, anh chị em ơi, hỡi người bạn, đồng bào ơi… và tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với họ. Trong bài thơ Từ ấy, tác giả viết:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Tính chất nhân văn sâu sắc trong nội dung thơ Tố Hữu chính là ở sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân đạo của dân tộc trong cuộc sống cũng như trong thơ ca. Trong tập thơ Việt Bắc, hình ảnh lãnh tụ, chiến sĩ, nhân dân là những hình ảnh chủ đạo, gợi cảm xúc rất mạnh đối với Tố Hữu. Tất cả tập hợp lại thành biểu tượng của một dân tộc hào hùng và quật khởi đã làm nên vinh quang bất diệt, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp bằng chiến công Điện Biên Phủ vang dội địa cầu:
Kháng chiến ba ngàn ngày Không đêm nào vui bằng đêm nay Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực Trên đất nước, như huân chương trên ngực Dân tộc ta, dân tộc anh hùng! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Trên đà thắng lợi, đất nước Việt Nam ngẩng cao đầu tiến tới tương lai. Bước chuyển mình lớn lao, khí thế ngất trời của dân tộc đã được Tố Hữu ghi nhận với niềm sảng khoái hiếm có:
Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp, Rắn như thép, vững như đồng Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, dài như sông Chí ta lớn như biển Đông trước mặt! (Ta đi tới)
Trong giai đoạn lịch sử mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để xây dựng xã hội chủ nghĩa theo đúng ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tâm điểm của tập thơ Gió lộng là sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tâm hồn Tố Hữu tràn ngập niềm vui, niềm tin vào cuộc sống mới, vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Tinh thần lạc quan tỏa sáng mỗi dòng thơ, mỗi bài thơ:
Tôi đi dưới nắng trưa Mùa xuân ấm áp Nghe hơi thở của đồng quê mập mạp Bãi phù sa xanh mượt ngô non Những đàn trâu Việt Bắc béo tròn Đủng đỉnh về xuôi quê hương mới lạ Rực rõ những làng vàng tươi mái rạ Gạch mới nung, đá trắng chất bên đường Khói lò bay quanh những phố phường Sắt sáng chói những bể dầu xưởng máy Và trường học đã mọc lên từng dãy… (Trên miên Bắc mùa xuân)
Cuộc sống mới như bức tranh muôn màu sắc cuốn hút hồn người:
Xuân đến năm nay, sớm lạ thường Trời đang rét ngọt, sáng nhiều sương Ong kêu ong dậy đường hoa vải Rực lúa chiêm trăng, bướm bướm vàng. Như nghìn năm đẹp nét xuân xưa Bỗng tỏa gương trong, sạch bụi mờ Xuân mới, đơn sơ, đằm thắm vậy Căng đầy sức dậy, dáng non tơ… (Xuân sớm)
Trái tim nhạy cảm của nhà thơ đập cùng một nhịp với trái tim đồng ch đồng bào, chan hòa trong tình cảm riêng chung, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của cuộc đời. Sống trên đất Bắc nhưng Tố Hữu luôn tưởng nhớ đến quê hương xứ Huế thân yêu, đến đồng bào miền Nam đang sống trong ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mĩ xâm lược và bè lũ ngụy quyền tay sai bán nước. Tập thơ Ra trận là khúc tráng ca sôi nổi với những nhân vật trữ tình mang lí tưởng thời đại và tầm vóc lịch sử như hình tượng người chiến sĩ Giải phóng quân tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam anh hùng với lí tưởng và hào khí:
Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai ! (Theo chân Bác)
Tố Hữu ca ngợi những gương sáng của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng như Nguyễn Văn Trỗi, Trân Thị Lý, mạ Suốt… Đúng như nhận xét : Ở Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng. Thơ Tố Hữu đã chứng minh chân lí mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Không có gì quý hơn độc lập, tự do và truyền thống bất khuất chống xâm lăng, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới:
Xuân hãy xem ! Cuộc diễu binh hùng vĩ 31 triệu nhân dân Tất cả hành quân Tất cả thành chiến sĩ Hiện đại, thô sơ Của ngày xưa và của bây giờ Với cách mạng đều là vũ khí Tên lửa, tên tre Lưỡi lê, lưỡi mác Và thuyền và xe Chân đi, vai vác Qua núi qua khe Mạnh hơn thác, trùng trùng vô tận… Ở đâu ? Mỗi ngọn núi dòng sông Cũng hiển hách chiến công Lừng danh dũng sĩ. Ở đâu ? Mỗi mũi chông, một ngọn tầm vông Cũng hiên ngang như trường thành chiến lũy. Và ở đâu? Trên trái đất này Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay Sống chết từng giây, mưa bom bão đạn Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn. (Chào xuân 67)
Tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược và khí thế như triều dâng bão nổi của quân dân ta đã được Tố Hữu nhấn mạnh và thể hiện tài tình, sinh động :
Hoan hô Xuân 68 anh hùng! Hãy gầm lên như sấm sét đùng đùng Tất cả pháo Và xông lên, dũng sĩ! Như khí phách Trần, Lê. Như oai vũ Quang Trung Khắp thành thị nông thôn Đánh tan đầu Mỹ, ngụy Vì Độc lập, Tự do, núi sông hùng vĩ Vì thiêng liêng giá trị Con Người Vì muôn đời hoa lá xanh tươi Ta quyết thắng. Giành mùa xuân đẹp nhất! (Bàì ca xuân 68)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng mùa xuân 1975. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại cảm xúc thăng hoa trong giây phút thiêng liêng không thể nào quên của bản thân nói riêng và của cả dân tộc nói chung:
Ba mươi năm, trường kì kháng chiến Ta đã đi. Và ta đã đến Thật đây rồi, hạnh phúc cầm tay Độc lập, Tự do, từ nay vĩnh viễn… Tôi lại nhìn, như đôi mắt trẻ thơ Tổ quốc tôi. Chưa đẹp thế bao giờ Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển Xanh trời, xanh của những ước mơ… Tôi bay giữa màu xanh giải phóng Tầng thấp, tầng cao, chiều dài, chiều rộng Ôi Việt Nam ! Yêu suốt một đời Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi (Vui thế, hôm nay…)
Những vấn đề Tố Hữu đề cập đến trong thơ là những vấn đề lớn lao, bức xúc, liên quan mật thiết đến số phận của đất nước, dân tộc. Đó là những tình cảm lớn, niềm vui lớn : say mê lí tưởng, tình đồng bào, đồng chí thiêng liêng, ân tình cách mạng, quan điểm sống chết… Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh nhiều mặt của giá trị nhân vãn và sức mạnh tinh thần của đời sống dân tộc, mang theo máu thịt và hơi thở nóng hổi của cuộc đời. “Cái tôi” trong thơ ông thường hòa trong “cái ta” rộng lớn là cộng đồng dân tộc.
Tính dân tộc còn thể hiện ô chất trữ tình cách mạng thấm đượm trong giọng điệu tâm tình ngọt ngào của thơ Tố Hữu. Một mặt là do cội nguồn xứ Huế, cái chất Huế thấm sâu vào hồn thơ, vào ngôn ngữ thơ, mặt khác nó bắt nguồn từ quan niệm về thơ của ông : Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí. Nói đến thơ là nói đến sự đồng điệu của những tâm hồn.
Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu có mối liên quan gần như máu thịt đối với giai cấp và dân tộc. Thơ ca chính là sợi dây nối kết bền chặt giữa nhà thơ với cuộc sống của nhân dân, đất nước. Bạn đọc yêu mến thơ Tố Hữu, thuộc thơ Tố Hữu phẩn lớn ỉà do nội dung gần gũi, thiết thực song cũng vì hình thức nghệ thuật giàu tính dân tộc của nó. Tố Hữu đã tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo, đồng thời phát huy cao độ tinh hoa thơ ca dân tộc. Ông sử dụng thành thục, điêu luyện thể thơ lục bát uyển chuyển, giàu nhạc điệu để thể hiện những nội dung cách mạng hoàn toàn mới. Bên cạnh đó, sự sáng tạo của nhà thơ đã góp phần không nhỏ vào việc khẳng định ưu thế của thể thơ quen thuộc đó. Nhiều bài thơ lục bát của Tố Hữu in sâu trong tâm trí nhiều thế hệ yêu mến thơ ông, tiêu biểu nhất là bài thơ Việt Bắc với những đoạn tuy mang đậm hơi hướng ca dao nhưng vẫn có những sáng tạo của riêng tác giả:
Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ? Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chôn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Đoạn thơ tả cảnh sau đây thể hiện nét tài hoa của ngòi bút Tố Hữu. Quả là trong thơ có họa:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang. Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Bài Kính gửi cụ Nguyễn Du mà nhà thơ Tố Hữu viết trong một chuyến công tác đặc biệt vào tuyến lửa miền Trung thời kì máy bay Mĩ ném bom miền Bắc có thể coi là một ví dụ tiêu biểu cho tính dân tộc trong thơ ông :
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ Cụ thương thân nàng Kiều… Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh Ngổn ngang bên nghĩa bên tình Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao ? Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường! …Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. Hởi Người xưa của ta nay Khúc vui xin lại so dây cùng người! Sông Lam nước chảy bên đồi Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân…
Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đi sâu vào lòng người bằng con đường ngắn nhất, bởi các vấn đề quan trọng của dân tộc, của đất nước đều được nhà thơ thể hiện bằng tiếng nói sâu thẳm, đằm thắm của con tim xúc động chân thành và những giao cảm tinh tế với Cái Đẹp. Tố Hữu đã kết hợp nhuần nhị hai yếu tố cách mạng và dân tộc cho nên đúng như quan niệm của ông : Thơ là chuyện tri âm tri kỉ. Thơ là một điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu. Những thành quả đáng kể của sự nghiệp thơ ca Tố Hữu đã góp phần làm phong phú thêm thơ ca tiếng Việt của dân tộc ta vốn đã giàu và đẹp.