Soạn bài Việt Bắc của Tố Hữu (phần tác giả)
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa một nỗi nhớ nhung da diết cũng như biểu lộ tấm lòng chung thủy của tác giả nói riêng cũng như người cán bộ nói chung đối với Việt Bắc.
I. Tác giả
1. Tố Hữu
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 – 10 – 1920, quê ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Sinh ra trong một nhà nho nghèo, từ nhỏ Tố Hữu đã học và tập làm thơ.
Ông giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937 – 1938. Tháng 8 – 1945, ông là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên Huế.
Soạn bài Việt Bắc
Từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IV và V), Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Cùng với hoạt động chính trị, Tố Hữu vẫn sáng tác thơ đều đặn. Với tư cách một hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam (1957), ngoài phụ trách chuyên môn công tác văn nghệ và tập huấn của Đảng. Tố Hữu còn phát biểu nhiều ý kiến về văn học nghệ thuật, chỉ đạo phong trào văn nghệ của đất nước trong một thời gian dài.
Tố Hữu nhận được các giải thưởng văn học lớn:
– Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (Tập thơ Việt Bắc).
– Giải thưởng Văn học ASEAN (1996).
– Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, năm 1996).
2. Sự nghiệp thơ văn của Tố Hữu
Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu gần như cùng lúc với con đường hoạt động cách mạng. Thơ ông gắn bó chặt chẽ với các cuộc đấu tranh cách mạng nên chặng đường thơ của ông cũng song hành với các giai đoạn cách mạng, đồng thời thể hiện sự vận động về tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
a. Tập thơ đầu tay Từ ấy (1937 – 1946) biểu hiện tấm lòng yêu thương xúc động của người chiến sĩ cách mạng trước những cảnh đời cũ nhiều ngang trái, bất công (Đi đi em, Lão đầy tớ, Tiếng hát sông Hương…). Từ ấy ghi lại niềm vui bắt gặp lí tưởng cách mạng của người thanh niên Huế, sự hòa nhập với cuộc đời chung của dân tộc (Xuân lòng, Từ ấy, Trăng trối…). Từ ấy còn là tiếng hát cất lên từ xiềng xích ngục tù, thể hiện tinh thần đấu tranh kiên cường của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi (Tâm tư trong tù, Nhớ đồng, Con cá chột nưa, Tiếng hát đi đày…). Tập thơ khép lại bằng một niềm vui lớn, niềm vui giải phóng, niềm vui tung phá xiềng xích ngục tù, niềm vui hít thở không khí trong làn sau hàng trăm năm nô lệ, niềm vui bay lên với sông núi tự do (Huế tháng Tám, Xuân nhân loại, Vui bất tuyệt…). Những bài thơ của Tố Hữu trong Từ ấy giàu sức sống mới mẻ, hấp dẫn. Ông đem vào thơ những lắng nghe, xúc động, yêu thươn, căm giận… của tâm hồn thi sĩ cách mạng. Từ ấy, cái thời điểm giàu ý nghĩa của một tâm hồn khi tìm được lí tưởng, khi cái riêng hạnh phúc cá nhân đã hòa vào cái chung, vận mệnh của dân tộc.
Soạn bài Việt Bắc
b. Việt Bắc (1946 – 1954) là tập thơ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, phản ánh cuộc hành trình gian khổ đã diễn ra suốt trên “ba ngàn ngày không nghỉ” của quân và dân ta từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Việt Bắc khắc họa hình ảnh nhân dân trong cuộc kháng chiến: anh “bộ đội Cụ Hồ”, bà mẹ giàu lòng thương con, yêu nước, người phụ nữ đảm việc nước, giỏi việc nhà, em bé giao liên… (Cá nước, Lên Tây Bắc, Bà Bủ, Bầm ơi, Lượm…). Trong tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu thể hiện tình cảm lớn, niềm vui lớn với nhân dân và đất nước, lãnh tụ; ca ngợi chiến thắng và chào đón hòa bình (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới, Việt Bắc…). Từ tập thơ Việt Bắc, Tố Hữu thường đặt vấn đề lẽ sống của dân tộc, mối quan hệ giữa dân tộc và thời đại. Chất hiện thực sâu sắc trong thơ Tố Hữu tạo nên sự kết hợp nhuần nhị giữa yếu tố lãng mạn cách mạng và hiện thực.
c. Gió lộng (1955 – 1961) phản ánh giai đoạn đất nước ta bắt đầu thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Gió lộng thể hiện niềm vui làm chủ đất nước, làm chủ đời mình (Trên miền Bắc mùa xuân, Mùa thu mới…); ca ngợi cuộc sống mới ở miền Bắc (Tiếng chối tre, Bài ca mùa xuân 1961…) và bộc lộ tình cảm tha thiết đối với miền Nam (Quê mẹ, Người con gái Việt Nam, Thù muôn đời muôn kiếp không tan…). Tập Gió lộng tiếp tục khuynh hướng khái quát và cảm hứng lịch sử – dân tộc được mở ra ở cuối tập Việt Bắc. Tập thơ thể hiện những vấn đề dân tộc, cộng đồng, chứ không phải là vấn đề số phận cá nhân, nói đúng hơn là số phận cá nhân hòa với số phận dân tộc, cộng đồng.
d. Ra trậng (1962 – 1971) và Máu và hoa (1972 -1977) là hai tập thơ ra đời trong thời kì cả nước ta chiến đấu kiên cường chống giặc ngoại xâm, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tầm vóc thời đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, tư tưởng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng là những yếu tố cho âm hưởng hùng ca (cảm hứng về nhân dân, về lịch sử) tràn vào thơ của Tố Hữu, đặc biệt trong các bài thơ (Chào xuân 67, Bài ca xuân 68…). Trước đây, âm hưởng anh hùng ca đã xuất hiện một phần trong các bài Việt Bắc, Ta đi tới, Ba mươi năm đời ta có Đảng, nhưng đến thời kì chống Mĩ cứu nước, âm hưởng anh hùng ca ngày càng nổi lên; sự kết hợp giữa âm hưởng trữ tình và anh hùng ca đã khá nhuần nhị (Theo chân Bác, Nước non ngàn dặm).
e. Một tiếng đờn (1979 – 1992) xuất hiện trong tình hình đất nước và quốc tế có nhiều biến động. Hiện thực bộn bề nhiều mặt đã đi vào tác phẩm của Tố Hữu. Với tập thơ tâm tình này, tác giả bộc lộ những chiêm nghiệm và suy nghĩ sâu sắc trước cuộc đời. Tuy nhiên, mọi sự suy nghĩ về lẽ đời biến đổi, về chuyện nhân tình có thể hiện tâm trạng buồn của Tố Hữu nhưng vẫn ẩn chứa niềm tin yêu, hi vọng không bao giờ cạn đối với Đảng, đất nước, dân tộc (Một nhánh xuân, Chân trời mới, Duyên thầm…).
Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết là vì sự nghiệp của dân tộc, của Đảng. Thơ Tố Hữu biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng. Cảm hứng nổi bật trong thơ Tố Hữu là cảm hứng về nhân dân, về cách mạng, cảm hứng về lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải là cảm hứng đời tư. Trong thơ Tố Hữu, cái tôi đã hòa với cái ta; cái riêng hòa với cái chung, nghệ sĩ gắn bó với nhân dân. Thơ Tố Hữu là sự kết hợp nhuần nhị giữa các yếu tố lãng mạn cách mạng và hiện thực, trữ tình và anh hùng ca, tính dân tộc và tính thời đại. Giọng điệu riêng trong thơ Tố Hữu là giọng tâm tình ngọt ngào, tha thiết. Trên nhiều chặng đường thơ Tố Hữu đã kết hợp hài hòa nội dung với hình thức biểu hiện và tạo hiệu quả nghệ thuật cao.
Soạn bài Việt Bắc của Tố Hữu (phần tác phẩm)
I. Tác giả
II. Tác phẩm
Soạn bài Việt Bắc
1. Hoàn cảnh ra đời, nội dung và vị trí của bài thơ
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ thể hiện tình cảm gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.
Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi đón nhận cuộc sống thanh bình, nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc.
1. Tìm hiểu tác phẩm
2.1. Việt Bắc với vẻ đẹp của cảnh và người
Tình yêu thiên nhiên, đất nước của tác giả được biểu hiện qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc, đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, là hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những “rừng nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy” là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.
Nhưng có lẽ nổi bật nhất trong nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hòa quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng… Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ, thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc – đó là hình ảnh những mái nhà “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô’’, là những ngày tháng đồng cam cộng khổ :
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng trong bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.
2.2. Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu
Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu, bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hung ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công : Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên… Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ đi sâu vào lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù : Miếng cơm chấm muối, muối thù nặng vai, sức mạnh tình nghĩa thủy chung : Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên – tất cả tạo thành hình ảnh đất nước lên :
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết, Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh chiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?
Trong những năm tháng kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có « cụ Hồ soi sáng », có « Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công » để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái, ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa.
2.3. Việt Bắc trong cảm hứng về ngày mai
Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc, từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hòa bình, phồn vinh.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.
Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ, người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hóa khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.
Soạn bài Việt Bắc
3. Kết luận
Điều làm nên sức sống diệu kỳ của bài thơ Việt Bắc là giọng điệu thơ ngọt ngào, dân dã đậm sắc màu ca dao. Mạch tình cảm như suối ngầm ẩn tàng trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Tố Hữu – luôn đậm đà tính dân tộc.
Tâm tình lại gắn với hình ảnh quê hương – với những nét gợi thương gợi nhớ – là mạch tâm linh chảy suốt chiều dài lịch sử, chạm vào sơi dây tình cảm thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam “Anh đi anh nhớ quê nhà…”.
Cảm hứng chính trị xuyên suốt một đời thơ Tố Hữu. Với tâm tình, lẽ sống của nhà thơ, Việt Bắc là kết tinh của tình cảm riêng – chung. Hòa điệu tự nhiên của hai luồng tình cảm: dân tộc và cách mạng. Tiếng nói của nhân vật trữ tình nhâp vai cũng chính là những suy ngẫm, tình cảm của nhà thơ. Thật khó tách bạch chủ thể và nhân vật. Ở đó là một cái tôi gắn với phẩm chất và tình cảm dân tộc, tiếng nói riêng tư “mình – ta” đã nói hộ tấm lòng của nhân vật và những người con cách mạng. Chất tự sự – trữ tình chính trị như những lời thầm thì tâm sự cùng mọi người, thuyết phục lòng người.
III. Luyện tập
Bài tập 1.
Gợi ý:
Nét tài hoa của Tố Hữu trong việc sử dụng cặp đại từ mình và ta. Hai đại từ đó có sự hoán đổi cho nhau, khó tách rời.
Bài tập 2.
Bình giảng đoạn thơ từ Ta về mình có nhớ ta đến Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
a. Mở bài
Là người, ai cũng có một miền quê để nhớ, để thương. Có những mảnh đất tuy không phải nơi chôn nhau cắt rốn nhưng vẫn không bao giờ phai mờ trong tâm khảm. Bởi đó là máu thịt, là nơi ghi lại kỉ niệm đẹp nhất của một đời người. Như Chế Lan Viên đã từng triết lí: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Việt Bắc – quê hương của kháng chiến, cách mạng trong những ngày đầu tiên của nền dân chủ cộng hòa đã trở thành biểu tượng của tấm lòng gắn bó thủy chung với cách mạng, dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại mối tình sắt son đậm đà “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” trong bài thơ Việt Bắc, bằng tất cả cảm xúc nồng nàn của một hồn thơ đằm thắm thủy chung.
Qua bao năm tháng, biến động của lịch sử, tiếng nói thiết tha ấy vẫn rung cảm lòng người, Việt Bắc của ngày xưa vẫn nguyên vẹn trong lòng người hôm nay: “Ta về… ân tình thủy chung”. Tiếng lòng ân tình thủy chung ngày ấy phải chăng đã thấm sâu vào mạch ân tình chung thủy của thi ca dân tộc, cho nên khoảng cách thời gian không làm nhạt nhòa ấn tượng về một vùng rừng núi chiến khi xưa hùng vĩ nên thơ?
b. Thân bài
1. Cảm nhận chung
– Điều làm nên sức sống diệu kỳ của bài thơ Việt Bắc nói chung và đoạn thơ nói riêng là giọng điệu thơ ngọt ngào, dân dã đậm sắc màu ca dao. Mạch tình cảm như suối ngầm ẩn tàng trong tâm hồn người Việt. Đó cũng là đặc trưng cơ bản của phong cách thơ Tố Hữu – luôn đậm đà tính dân tộc.
– Tâm tình lại gắn với hình ảnh quê hương – với những nét gợi thương gợi nhớ – là mạch tâm tình chảy suốt chiều dài lịch sử, chạm vào sợi dây tình cảm thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam “Anh đi anh nhớ quê nhà…”.
– Cảm hứng chính trị xuyên suốt một đời thơ Tố Hữu. Với tâm tình, lẽ sống của nhà thơ, Việt Bắc là kết tinh của tình cảm riêng – chung. Hòa điệu tự nhiên của hai luồng tình cảm: dân tộc và cách mạng. Tiếng nói của nhân vật trữ tình nhập vai cũng chính là những suy ngẫm, tình cảm của nhà thơ. Thật khó tách bạch chủ thể và nhân vật. Ở đó là một cái tôi gắn với phẩm chất và tình cảm dân tộc, tiếng nói riêng tư “mình – ta” đã nói hộ tấm lòng của nhân dân và những người con cách mạng. Chính tự tự – trữ tình chính trị như những lời thì thầm tâm sự cùng mọi người, thuyết phục lòng người.
2. Nỗi nhớ
– Là cảm xúc chủ đạo của toàn bộ bài thơ, gắn với “ta – mình”, “mình – ta”, là cung bậc thiết tha của tình cảm, là miền ký ức không phai mờ của người ra đi.
– Nỗi nhớ ở đây mượn nguyên màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh tinh vi trong quan hệ khăng khít: hoa – người. Quê hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên (hoa) hòa hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người.
– Mỗi một hình ảnh “hoa cùng người” như đem lại ấn tượng riêng biệt về nét đẹp núi rừng Việt Bắc. Sự nối tiếp, đan xen sắc màu làm nên mạch cảm xúc của đoạn thơ, nỗi nhớ qua từng câu càng đậm đà và mãnh liệt hơn. Trên cơ sở đó, nhà thơ hướng toàn bộ tâm tư về con người – nhân dân với những phẩm chất bình thường mà vĩ đại.
3. Bức vẽ quê hương
– Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca – gói trọn bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Bước luân chuyển của thời gian được tác giả chọn ở những thời điểm nên thơ, tạo ấn tượng không phai mờ trong ký ức. Nhớ cảnh để nhớ người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là màu đỏ tươi của hoa chuối. Chấm phá của bức tranh thủy mặc điểm một sắc đỏ trong không gian xanh bao la, không gian mang sức sống mãnh liệt. Ở đây là cách nhìn của thi nhân Á Đông, người đọc có thể nhớ đến một cảm xúc quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi:
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
(Báo kính cảnh giới – 43)
Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không hề có cảm giác lãnh lẽo, bởi sắc đỏ chuối như phun trào từ giữa màu xanh của rừng.
Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp thật khỏe khoắn của người. “Nắng ánh dao gài thắt lưng” là hình ảnh người dân miền sơn cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng – vật bất ly thân của người miền núi – nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông, mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ kiêu hãnh của núi rừng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết: “chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc hiện lên vẻ đẹp ở nét đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Trong cách tả không có một âm vang nào của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người vẻ đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng ngày.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Không gian nỗi nhớ hình như ro nét nhất, đậm đầ trong bức tranh mùa hạ. Và cũng đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của “cô em gái hái măng”. Câu thơ tả cảnh giàu sức biểu cảm, tiếng ve ran gọi màu vàng tràn ngập không gian. Không gian lung linh hơn khi sắc vàng đổ xuống. Ấn tượng màu vàng đẹp như bức vẻ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người trong tiếng ve going giả gọi hè, như gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh rừng.
Nỗi bật giữa khung cảnh là hình ảnh “cô em gái”. Cách gọi biểu lộ niềm thân thương trìu mến của con người. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp nên thơ của một “cô hái mơ” trong thơ Nguyễn Bính (Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ). Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp khỏe khoắn mộc mạc hơn. Một mình nhưng không tạo cảm giác cô đơn hiu quạnh, vì cả không gian nhuộm rực ánh sáng.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Không gian chuyển về đêm. Như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng như lan tỏa vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên vẻ huyền ảo. Khung cảnh gọi hồn thơ.
Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, thành “tiếng hát ân tình thủy chung”. Nhớ không cụ thể một đối tượng nào. Như ca dao:
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai.
Tình người bâng khuâng trong câu thơ gợi cảm xúc đồng điệu giữa kẻ ở người đi. Đọng lại trong nỗi nhớ “ân tình thủy chung” dào dạt.
c. Kết bài
Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ gần với hình ảnh của núi rừng Việt Bắc. Mỗi mùa mang một sắc màu riêng và bốn mùa hòa chung màu sắc đa dạng, làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh phong cảnh trữ tình.
Thời gian diễn tả tuần tự, nhưng thời gian không làm phai nỗi nhớ. Mỗi mùa đi qua có một khoảnh khắc đáng nhớ – đó là khi trái tim nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật.
Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của trái tim nhà thơ. Cũng là tấm lòng của những người con kháng chiến sâu nặng với thủ đô kháng chiến.