Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm

Cảm nhận bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy

Bài làm

Đọc bài thơ có cái tựa đề không mấy êm tai này, cảm giác của chúng ta như người vượt dốc, trèo đèo. Nó gập ghềnh không phẳng lặng êm xuói. Nó gập ghềnh, gấp khúc. Ở cụm từ “trên lưng”, ta còn nhận ra một thoáng chốc nhọc nhằn. Bài thơ là một phác thảo chân dung người mẹ trong một hoàn cảnh khác thường. Sự khác thường chính là ở cái khối lượng mà người mẹ mang vác trên vai thật lớn. Là người mẹ, người vợ, người phụ nữ tháo vát đảm đang không chỉ gánh vác “giang sơn nhà chồng” mà còn nhiều hơn thế. Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đem đến cho mẹ cùng với trách nhiệm là biết mấy vinh quang.

 

Về cấu trúc bài thơ, hình tượng người mẹ – hình tượng trung tâm vừa chạy dọc toàn bài thơ tẽ ngang ra từng cành, nhánh như những cây xà nu, cây kơ-nia vừa vút cao lên để tiếp nhận ánh sáng mặt trời vừa bám chặt vào lòng đất để không một thứ gió to bão lớn nào có thể làm cho nó chao đảo, ngả nghiêng. Vì thế việc chia đoạn là cần thiết, song để phân tích cần đến một cái nhìn tổng thể có tính khái quát nói chung, về bố cục, căn cứ vào nhịp điệu toàn bài mà ngắt ra làm ba khúc, bắt đầu từ những lời ru “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi – Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”. Từ người mẹ với ba vùng không gian ngày càng rộng mờ : người mẹ giã gạo, người mẹ tỉa bắp, người mẹ hướng tới chiến trường. Ở cả ba đoạn thơ ấy, người mẹ đều gắn với công việc, bằng tình thương, với bao ước mơ. Ba yếu tố hợp thành hình tượng rất khó cắt chia. Nhưng để phân tích, chúng ta không có cách nào khác là bóc tách chúng ra trong sự hội tụ khách quan của nó. Bóc tách không chỉ để cảm nhận kĩ càng mà còn nhìn ra một xu thế của sự phát triển: rộng dần ra, cao dần lên ở hình tượng.

Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm

1. Người mẹ của công việc

Công việc hằng ngày của mẹ thực ra cũng chỉ là những công việc bình thường như giã gạo, đi nương, tỉa bắp. Có những giọt mồ hôi, có những lời than thở cũng chẳng mấy ngạc nhiên, bởi công việc nhà nông dù miền ngược hay miền xuôi vẫn muôn đời là vậy. Nhưng so với miền xuôi, công việc ấy còn nhọc nhằn gấp bội, vì có làm gì, lúc nào người mẹ cũng dịu đứa con nhỏ trên lưng. Những câu thơ gắn người mẹ với đứa con trong công việc vì vậy mới nặng trĩu xót thương:

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.

Câu thơ độc đáo giàu sức tạo hình và rất hiện thực. Phát hiện độc đáo này là nhờ vào sự sóng đôi của từ “nghiêng”. Nhịp chày giã gạo, thực ra nó không nghiêng, nhưng vì giấc ngủ của cháu bé không được ngay ngắn như đặt trên giường mà cháu bé dựa vào tấm lưng người mẹ lúc lên lúc xuống phải chao đảo, dập dờn nén nghiêng lệch hẳn đi. Cháu bé nhọc nhằn chẳng kém gì người mẹ. Giọt mồ hôi của mẹ không đổ xuống sàn, xuống nương, xuống rẫy (“Mồ hôi mà đổ xuống đồng”, “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” – Ca dao), nó rơi xuống má con “nóng hổi”. Mồ hôi ấy là của cả con và mẹ. Người mẹ không muốn đứa con gánh chịu vất vả cực nhọc:

Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ

Vẫn là người mẹ với công việc, tuy lần này, ở đoạn hai, nó không phải là giã gạo mà là tỉa bắp (“Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi”). Tỉa bắp trên lưng núi, trên nương, sự vất vả của người mẹ, do đó không còn sự so sánh cái tư thế “nghiêng” giữa nhịp chày và giấc ngủ, mà mở ra một tương quan khác. “To” thuộc vẻ lưng núi, “nhỏ” thuộc về lưng mẹ. Lấy cái lớn mà so với cái nhỏ. Khái niệm vể sự gian khổ không còn trừu tượng chung chung, nó đã đo được bằng ý chí con người. Người mẹ dịu con một mình tỉa bắp trên nương đã được hiện lên trong thơ Tố Hữu :

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.

Câu thơ vừa có cái hiu hắt, cô đơn, vừa có cái gan dạ bền bỉ lạ lùng, cái chất “chân cứng đá mềm” của người dân miền núi. Rồi đến đoạn ba:

Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối.

Hai câu thơ không có hình ảnh, chỉ “kể” chứ không “tả” như hai đoạn trên giúp chúng ta hiểu thêm một khía cạnh khác ở người mẹ hay lam hay làm: ấy là sự nguy hiểm rình rập. Nhịp điệu hối thúc của câu thơ gợi sự khẩn trương, gấp gáp. Vẫn là với đứa con ấy, người mẹ không chi lo việc mưu sinh mà lo cả mạng sống cho chính mình, cho đứa con dưới bom đạn giặc.

2. Người mẹ tâm tình

Hướng phát triển của mạch thơ đi dần vào chiều sâu hình tượng.Vì sao người mẹ lam lũ, nhọc nhằn ? Vì một nguồn sống khác chứ không chỉ là củ sắn, bắp ngô: “Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội”. Dòng máu trong mẹ dầy ắp tình thương, một tình thương nhân hậu, vị tha, vô cùng cao cả : cho đứa con ruột thịt đã đành, cho cả những người không phải là ruột thịt (bộ đội) “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Bộ đội cũng là những đứa con cần được nuôi nấng và thương yêu. Đó là những đứa con, không thuộc về một gia đình cụ thể như đứa con đang dịu trên lưng, mà thuộc về một cái gì lớn hơn nhưng thiêng liêng không kém ấy là những đứa con của núi sông này, của Tổ quốc này mà mẹ gắn bó thương yêu. Mẹ không chỉ thương bộ đội, “mẹ thương làng đói”, lại một khía cạnh khác của tình thương. Cái đói đối với những người nghèo thiếu nói chung vốn đã dược nói nhiều trong văn học. Nhưng cái đói của người dân miền núi còn gay gắt hơn nhiều. Đói đến ăn củ nâu, củ sắn thay cơm, phải ăn tro tranh thay muối, cuộc sống ấy cũng cần đến sự cưu mang đùm bọc. Đó là cái nghĩa đồng bào. Tuy nhiên dù thương đồng chí, đồng bào, trong trái tim mẹ không bao giờ có sự phân chia hay đối lập với đứa con ruột thịt. Lúc nào tình thương ấy cũng hoà nhập với tình thương dứa con ruột của mẹ:

  •  Mẹ thương a – kay, mẹ thương bộ đội…
  • Mẹ thương a – kay, mẹ thương làng đội.

Giai điệu của tình thương phải chăng một phần dành để ru con, một phần dành để ru mình. Nó phong phú dồi dào, có sức bền nhân văn, cội rễ. Trong các cuộc chiến tranh, nhất là trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ vừa qua, tình thương của mẹ tuy vô hình nhưng nó có sức mạnh to lớn đối với những người cầm súng cùng với việc nuôi lớn những đứa con như thế.

3. Người mẹ của ước mơ

Ước mơ của người mẹ do sự hoà nhập của lẽ sống, của tình thương như con suối đổ ra sông, cứ lớn rộng dần ra. Trước hết là ước mơ cho con, vì đứa con là hi vọng, là phần đời sáng tươi của người mẹ sau này :

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng

Ở đây có hai khái niệm tương đương khác nhau nhiều về số đo vật lí, nhưng về tâm lí chúng chỉ là một mà thôi. “Mặt trời của bắp” là để nuôi cây, mang lại sự sống cho trăm loài trên trái đất, “mặt trời của mẹ” là đứa con để nuôi hạnh phúc, nuôi hi vọng không cùng ở nơi người mẹ. Nói đến mặt trời là nói đến hai đặc trưng lan toả: sáng và ấm. Đứa con thân yêu của mẹ hội tụ cả hai phẩm chất tuyệt vời, dù mặt trời của mẹ, của riêng mẹ chỉ nho nhỏ, chỉ vừa nằm đủ “trên lưng”. Mơ ước cho con thường bao giờ cũng giản dị, giản dị như cuộc đời người mẹ :

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…

Đó là một chàng trai khoẻ mạnh, giỏi giang, biết đỡ đần việc nhà giúp mẹ. “Hạt gạo trắng ngần” là hạt gạo của ước mơ. Gạo là để nuôi sống con người, là sự nối tiếp cái việc của mẹ từ xưa, cái ngày “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Hàm ý của câu thơ còn một nghĩa : con hãy đi tiếp con đường của mẹ nếu chiến tranh “kéo dài năm năm, mười năm hay còn lâu hơn nữa”. Trở lại cái ước mơ giản dị “mai sau con lớn” trên kia, không phải ngẫu nhiên mà ý thơ lặp lại không dưới hai lần, gần như cả lời và ý. Hai câu thơ ở đoạn hai “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều…”. Vẫn là cái ý nghĩ giản dị “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần” ở đoạn thứ nhất. Vẫn nhịp 4 /4 ấy, nhịp hai như tiếng chày giã gạo ngày xưa. Trong sáng và lành mạnh biết bao cái ước mơ nhỏ nhoi của những người một nắng hai sương đi gieo hạt mùa màng cần cái ấm cái no, nó tha thiết và khát khao như cơm ăn nước uống. Thế mà kẻ thù đang cướp đi cái ước mơ đơn giản ấy (“Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối”). Nhà tan khi nước mất đó là một thảm hoạ khôn lường. Một khi kẻ thù đã cướp đi cuộc sống và quyền được sống của con người, vậy thì chỉ còn một cách như thế hệ trước của cu Tai, anh chị của cu Tai phải làm, và đến lượt mẹ, và cả cu Tai nữa :

Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn

“Từ … em đến”, “Từ … em vào” : ấy là một con đường không thể nào khác. Đó là nhân danh chân lí độc lập, tự do mà chúng ta cầm súng. Trong giấc mơ chiến đấu lâu dài, có ước mong một ngày thắng lợi. Ngày chiến thắng và cũng là thống nhất non sông chính là ngày “được thấy Bác Hồ”. Hình ảnh Hồ Chí Minh đặt trong bối cảnh những huyền thoại dân gian giống như Phật, tiên trong cổ tích. Bởi nó rực rỡ, như có một thứ hào quang từ đó toả ra. Nó chân thật và cảm động. Tính hiện đại của bài thơ, sự chất phác trong cách cảm nghĩ rất riêng của người miền núi đã gặp nhau trong hình ảnh Hồ Chí Minh như một viên ngọc, vừa mới mẻ vừa quen thuộc. Bài thơ vì vậy, về hình thức thì khép lại nhưng ý thơ, tình thơ lại cứ mở ra hướng về cái ngày mẹ cu Tai đã và đang đánh đổi bằng tất cả mồ hôi và máu của mình.

Bài thơ hiện thực, tâm tình và giàu ước mơ thể hiện dưới dạng tình thương, là con suối của tình thương chính là vì thế.

 Đề bài: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm.

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất nước. Lòng yêu nước thể hiện ở mỗi bài mỗi khác, tùy theo cảm hứng của tác giả, song mỗi bài là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ngợi ca Tổ quốc và nhân dân anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong chiến khu tây Thừa Thiên gian khổ và ác liệt thời chống Mĩ. Trong những ngày mưa bom bão đạn ấy, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đã ra đời.

Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trôn lưng vừa giã gạo để nuôi bộ đội; tỉa bắp trên nương góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình khôn lớn được sống trong đất nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi.

Bài thơ có 3 khúc hát ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.
Mẹ thương a-kay, mẹ thương…|
Con mơ cho mẹ…
Mai sau con lớn…

Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng tình cảm, ước vọng đối với đứa con và quê hương đất nước.

Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ

Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ. Hai câu thơ sau miêu tả người mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng

Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn    bó sâu nặng giữa mẹ và con. Tác giả vừa miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ, vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu Tai trên lưng mẹ. Dường như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.

Nếu ai đà từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào miền núi thì mới thấy hết sự vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công việc giã gạo nặng nhọc và thế hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng mộc mạc ấy đâ làm xúc động lòng người:

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời

Khi mẹ giã gạo, cu Tai vần ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận được mồ hôi của mẹ rơi trên má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu con thiết tha của mẹ.

Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho con, lưng    mẹ đung đưa làm nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được ấp ủ tròng hơi thở và tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru. Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử thắm thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con, nuôi bộ đội Giải phóng.

Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình của người mẹ:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp nay càng đẹp hơn bởi nó gắn liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ của mẹ là có nhiều gạo thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lẽn thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi quân:

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…

Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún sân đều chứa đựng niềm hi vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước, cho dân.

Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ

Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé ngủ ngon để mẹ yên tâm làm việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Núi thì lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên lưng mẹ con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ vùng cao trong lao động sản xuất thời chông Mĩ.

Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ  không biết mệt mỏi bởi đứa con là niềm hi vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực cho mẹ:

Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.

Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong những câu thơ này có nhiều ý nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời tỏa nắng sưởi ấm trái tim mẹ để mẹ sống tốt hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ.

Lời ở khúc hát ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa đựng ước mơ lớn hơn :

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…

Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về một ngày mai no ấm hạnh phúc, về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa con thân yêu.

Nêu ở hai đoạn thờ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo nuôi bộ đội, địu con lên nương tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu coh cùng đi đánh giặc:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối

Sự lặp lại hai câu thơ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc.

Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:

Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.

Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biêt bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc.

Kết thúc bài thơ vẫn là lời ru và ước nguyện của mẹ:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…

Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…, Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực và cũng thật lớn lao, kì diệu:

Mai sau con lớn vung chày lún sân…,
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Mai sau con lớn làm người Tự do…

Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.

Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chông Mĩ cứu nước nhưng đến nay nó vẫn còn giừ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình yêu thương con của bà mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính yêu Bác Hồ và tình yêu đất nước.

Khúc hát ru những em bé lởn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ, người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc, chân thành cao đẹp của những người mẹ trong cuộc kháng- chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc ta. Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!

Sau cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ miền núi vô danh.

Thảo luận cho bài: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm