Soạn bài thơ Hai–cư của Ba–sô
I. Gợi ý trả lời câu hỏi
Câu 1. Tình cảm thân thiết của nhà thơ với thành phố Ê-đô và nỗi niềm hoài cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm được thể hiện qua các bài 1 và 2 như thế nào?
Quê hương của Ba – sô ở Mi-ê, ông lê Ê-đô được mười năm mới về thăm lại quê. Nhưng đi rồi lại thấy nhớ Ê-đô, thấy Ê-đô thân thiết như quê hương mình. Ở bài thứ nhất, tình cảm của tác giả là dâng trào của cảm xúc khi chợt nhận ra tình cảm của mình đối với Ê-đô sâu đậm hơn những gì tác giả nghĩ. Có thể dẫn hai câu thơ của Chế Lan Viên để lí giải tình cảnh này của Ba-sô.
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Ở bài thơ thứ hai có nhắc đến chim đỗ quyên (hay còn gọi là chim quyên, chim đỗ vũ, chim tử quy…). Đó là tiếng của loài chim mà Ba-sô nghe được khi quay trở lại Ki-ô-tô sau hai mươi năm. Trong tiếng Nhật, chim đỗ quyên được đọc là ho-to-to-gi-su. Đó là loài chim hay cất tiếng kêu vào đầu mùa hè, khi trời xâm xẩm tối và tiếng kêu của nó rất thê thiết, vẫn được nghe ra là đẹp và sầu muộn, chính vì vậy trong tiếng Nhật nó còn những tên gọi khác như “loài chim của kiếp sau”, “loài chim thất tình”… Nghe tiếng chim kêu buồn đến não lòng người đó nhà thơ nhớ đến một Ki-ô-tô của quá khứ, một Ki-ô-tô nay đã xa xôi “ở Kinh đô mà nhớ Kinh đô”, sự nhớ tiếc đó có đượ tiếng chim buồn thê thiết kia đồng vọng, hay đó chính là tiếng lòng của thi nhân? Bài thơ cô đọng nhưng tình và ý thì bảng lảng như sương như khói, mơ mơ hồ hồ làm xao xuyến lòng người đọc.
Câu 2. Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi thể hiện các bài 3, 4 như thế nào? Hình ảnh trong các bài thơ đó mơ hồ, mờ ảo ra sao?
Lệ trào nóng hổi
Tan trên tay tóc mẹ
Làn sương thu.
Bài thơ được Ba-sô viết năm ông 40 tuổi, đó cũng là năm mẹ ông qua đời. Lúc đó ông đang làm cuộc du hành đến Kan-sai, không có ở nhà. Khi ông trở về thì nhận được di vật của mẹ là một mớ tóc cảm xúc mà viết nên bài thơ này. Tình cảm của ông dành cho mẹ được thể hiện ở những giọt lệ đầy xót xa và nóng hổi đương tương trào và rơi xuống bàn tay đang cầm mớ tóc bạc của người mẹ đã khuất của ông. Lệ tràn ra nóng hổi như làn sương hay tóc mẹ bạc trắng như sương? Hay cuộc đời ngắn ngủi như làn sương kia? Cái mơ hồ, mờ ảo của bài thơ nằm ở “quý ngữ” này.
Nhật Bản ngày xưa vào những năm mất mùa, đói kém nhiều gia đình nông dân tung quẫn quá, không nuôi nổi con, đành phải đưa con bỏ vào rừng. Ở bài thơ thứ hai, khi nghe tiếng vượn hú, Ba-sô liên tưởng đến tiếng khóc của những đứa trẻ bị bỏ rơi đó hay chính cái tiếng mà Ba-sô nghe là tiếng vượn, là tiếng trẻ em khóc thật? Hay trong mùa thu, tiếng gió thổi nghe như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi buồn đau của con người? Gió mùa thu tái tê hay lòng thi nhân tái tê hay lòng thi nhân tái tê khi nghe thấy những âm thanh gợi lên nhiều nỗi đau thương đó? Cái mơ hồ, mờ ảo của bài thơ nằm ở đây, nó chờ câu trả lời từ sự đồng vọng trong lòng người đọc.
Câu 3. Qua bài 5, anh / chị cảm nhận được vẻ đẹp gì trong tâm hồn nhà thơ?
Bài thơ này ra đời khi Ba-sô đi ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượn chú khỉ con bé nhỏ tội nghiệp kia đang ao ước có được một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh. Bài thơ còn gợi ra hình ảnh những người nông dân Nhật Bản nghèo khổ, những đứa trẻ tội nghiệp đang co ro trong làn mưa giá lạnh. Đây là bài thơ thể hiện rõ lòng từ bi của Ba-sô đối với những sinh vật nhỏ bé, tội nghiệp, đồng thời đây cũng là tấm lòng nhân dạo của nhà thơ đối với những mảnh đời bất bạnh.
Câu 4. Bài thơ:
Từ bốn phương trời xa
Cánh hoa đào lả tả
Gợn sống hồ Bi-oa.
Là bài thơ miêu tả cảnh mùa xuân. Đó cũng là mùa hoa anh đào nở. Tác giả liên tưởng hàng ngàn cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng. Chính cảnh tượng đẹp đẽ này lại ẩn chứa một triết lí vô cùng sâu sắc: sự tương giao của mọi vật trong vũ tru, mọi vật trong thế giới này đều tác động qua lại lẫn nhau, không có vật thể nào tồn tại độc lập. Hay như trong bài thơ số 7:
Vắng lặng u trầm
Thấm sâu vào đá
Tiếng ve ngâm.
Đó là sự im lặng huyền diệu. Trong cảnh u tịch đó, tiếng ve ngâm như thấm sâu vào đá. Một liên tưởng độc đáo và không hề có tính chất thậm xưng bởi cảnh u huyền đó là có thực và con người khi chìm vào thế giới đó sẽ thảnh thơi mà lòng chìm vào những suy tưởng của bản thân. Cái đẹp của bài thơ cũng nằm ở chính hình tượng này.
Câu 5. Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện như thế nào trong bài thơ số 8?
Khi viết bài thơ này Ba-sô đã rất yếu, sắp từ giã trần gian tươi đẹp để về cõi vĩnh hằng. Cuộc đời Ba-sô là sự gắn kết của những cuộc du hành, của những tháng ngày lang thang. Vì thế, ngay khi sắp từ giã cõi đời ông vẫn tỏ rat ha thiết, luyến lưu vô cùng. Tuy nằm bệnh nhưng ông vẫn thả hồn lang thang trên những cánh đồng hoang vu và ta có cảm tưởng như trong cõi mộng ấy đôi chân của thi nhân còn mãi lang thang, mộng hồn thi nhân còn phiêu dạt, gửi gắm ở một miền đất xa xôi nào đó.
Câu 6. Tìm “quý ngữ” và cảm thức thẩm mĩ về cái vắng lặng, đơn sơ, u huyền trong các bài 6, 7, 8.
- Trong bài thơ số 6, quý ngữ của bài chính là “cánh hoa đào”. Đó là hình ảnh gợi nên mùa xuân tươi đẹp. Cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ của bài hai-cư này chính là những triết lí sâu sắc rút ra được từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.
- Ở bài thơ số 7 quý ngữ của bài nằm trong hình ảnh “tiếng ve ngâm”. Đó là âm thanh vang vọng nhất của mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm chính trong sự u huyền, tịch mịch của không gian khi mà tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm sâu vào từng kẽ đá.
- Quý ngữ của bài thơ số 8 lại nằm ở “những cánh đồng hoang vu”. Từ những cánh đồng hoang vu hiện lên trong giấc mơ khi tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như sắp lịm đi kia gợi lên một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của bài hai-cư cũng ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.