Soạn bài người cầm quyền khôi phục uy quyền của V.Huy-Gô
Soạn bài luyện tập thao tác lập luận bình luận ( Tiết 1 )
(trích Những người khốn khổ)
I. Gợi ý trả lời câu hỏi.
Câu 1. Nghệ thuật đối lập hai nhân vật Giăng Văn-giăng và Gia-ve qua đối thoại, qua hành động.
Ngôn ngữ hành động Tình huống |
Gia-ve |
Giăng Van-giăng |
Trước khi Phăng-tin tắt thở | Ngôn ngữ và hành động man rợ, điên cuồng, hung hãn đối với Giang Van-giăng; độc ác, tàn nhẫn vùi dập niềm tin và hi vọng của Phăng-tin (Phăng tin tưởng Giang Van-giăng là Thị trưởng Ma-đơ-len và nhờ thị trưởng mà chị hi vọng được gặp con trước khi chết). | Nhẹ nhàng, tinh tế trong ngôn ngữ và hành động đối với Phăng-tin và Gia-ve. Tất cả biểu hiện của ông là nhằm cứu với Phăng-tin lúc cố đang ở trong tình trạng bệnh tình nguy kịch, mong được gặp con. |
Sau khi Phăng-tin tắt thở | Gia-ve tiếp tục quát tháo đòi bắt Giăng Van-giăng, không quan tâm đến cái chết của Phăng-tin (mà chính hắn là kẻ gây ra cái chết ấy). Hắn không còn lương tâm. | Phản ứng quyết liệt, khống chế Gia-ve (chứng tỏ ông không sợ Gia-ve. Trước đó ông nhún nhường, cầu xin Gia-ve tất cả là vì Phăng-tin). |
– Ý nghĩa của thủ pháp tương phản nhằm làm nổi bật sự đối lập giữa thiện-ác, tốt-xấu, yêu thương – tàn bạo. Từ những hình ảnh tương phản trên tác giả muốn gửi tới người đọc thông điệp. Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.
Câu 2. Ở Gia-ve tác giả đã sử dụng một loạt chi tiết nhằm quy chiếu về một ẩn dụ: Hình tượng con ác thú Gia-ve.
- Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động của hắn như con ác thú đang chuẩn bị vồ mồi (Tiếng thét “Mau lên” nghe như tiếng “thú gầm”; “phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt”; hành động “túm lấy cổ áo…”; “hắn cười phá lên., cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”…)
- Hắn mang dã tâm của loài thú (quát tháo Phăng-tin khi cô đang bệnh nặng, nói những lời kích động mạnh khiến Phăn-tin đột tử).
- Ở Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy về ẩn dụ như Gia-ve. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng có thể quy chiếu về hình ảnh: Một con người chân chính – con người của tình yêu thương.
- Để cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van-giăng buộc phải tự thú.
- Khi Phăng-tin chết “trong nét mặt và dáng điệu ông cho thất một nỗi thương xót khôn tả”.
- Lời thì thầm bên tai người đã chết là những lời hứa (về sau ông đã thực hiện được lời hứa đó).
Câu 3. Những dấu hiệu của nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa qua đoạn trích:
- Phăng-tin đã chết rồi mà khi nghe những lời thì thầm của Giăng Van-giăng trên đôi môi nhợt nhạt của chị hiện lên “nụ cười không sao tả được”.
- Khi Giăng Van-giăng sửa sang thi thể Phăng-tin như “một người mẹ sửa sang cho con” thì “gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường”.
Có thể đó chỉ là ảo tưởng do người khác (bà Xơ Xem-phích và tác giả) quá xúc động trước cử chỉ, hành động của Giăng Van-giăng. Bút pháp lãng mạn giúp nhà văn làm nổi bật vẻ đẹp trong tâm hồn đầy yêu thương của Giăng Van-giăng.