Soạn bài Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (mẫu 2)
Soạn bài kiểm tra truyện trung đại
I. Đọc – hiểu văn bản
Câu 1. Truyện Lục Vân Tiên được kết cấu theo kiểu thông thường của các loại truyện đời xưa. Đó là kiểu kết cấu truyền thống của loại truyện phương Đông, nghĩa là theo chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời các nhân vật chính. Truyện được viết ra nhằm mục đích trực tiếp truyền dạy đạo lý làm người.
Câu 2. Hành động đánh cướp bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng trọng nghĩa của Lục Vân Tiên. Chàng chỉ có một mình, tay không trong khi bọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng. “Người đều sợ nó có tài đương khôn”. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp – vẻ đẹp của người dũng tướng theo phong cách văn chương thời xưa, có thể so sánh với những hình mẫu lí tưởng như dũng tướng Triệu Tử Long trong Tam Quốc – không mấy ai không thán phục…!
Hành động của Vân Tiên chứng tỏ cái đức của con người vì nghĩa quên thân, đem cái tài và sức mạnh của bậc anh hùng bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực tàn bạo.
Thái độ cư xử của Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp lại bộc looj tư cách của con người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, rất từ tốn, nhân hậu. Thấy hai cô hái chưa hết hãi hùng. Vân Tiên “động lòng” tìm cách an ủi họ và ân cần hỏi han/ Khi nghe họ nói muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi ngay “Làm ơn không để trông người trả ơn”, từ chối lời mời về thăm nhà Nguyệt Nga, để cha nàng đền đáp, từ chối nhận chiếc trâm vàng của nàng, chỉ cùng nhau xướng họa một bài thơ rồi thanh thản ra đi. Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán.
Với những nét tính cách đó, hình ảnh Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, hình ảnh lí tưởng mà tác giả gửi gắm niềm tin và ước vọng của mình.
Câu 3. Là người chịu ơn, trong đoạn truyện này, Kiều Nguyệt Nga cũng đã bộc lộ những nét đẹp trong tâm hồn. Qua lời lẽ nàng giãi bày với Lục Vân Tiên, có thể thấy nàng là một cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức, cách xưng hô “quân tử”, “tiện thiếp” khiêm nhường; cách nói văn vẻ, dịu dàng, mực thước, cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.
Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nàng là người chịu ơn cứu mạng, Vân Tiên đã cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng. Nàng rất áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn. Bởi thế cuối cùng nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khẳng khái hào hiệp đó và đã giám liều mình để giữ trọn ân tình thủy chung với chàng.
Nét đẹp đó của Kiều Nguyệt Nga khiến người đọc cảm mến.
Câu 4. Nhân vật trong đoạn truyện được miêu tả chủ yếu qua hành động, cử chỉ, lời nói. Do mục đích sáng tác ban đầu là để đọc truyền miệng, kể thơ, vì thế tác giả ít chú ý khắc họa chân dung ngoại hình, cũng ít đi sâu và diễn biến nội tâm, giống như truyện cổ dân gian. Hai nhân vật chính trong đoạn được giới thiệu bằng vài nét ước lệ còn chủ yếu được đặt trong những mối quan hệ xã hội, trong những tình huống xung đột của đời sống, rồi bằng hành động, cử chỉ, lời nói của mình tự bộc lộ tính cách.
Câu 5. Ngôn ngữ tác giả mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường, mang màu sắc địa phương Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt, uyển chuyển nhưng lại phù hợp với ngôn ngữ kể, rất tự nhiên, dễ đi vào quần chúng.
Ngôn ngữ đa dạng, phù hợ với diễn biến trình tự tính cách nhân vật.