Soạn bài giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
Soạn bài tuyên ngôn độc lập tiếp theo
I. Sự trong sáng của tiếng Việt
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, tiếng Việt đã đạt được phẩm chất trong sáng, nhưng vẫn luôn đặt ra yêu cầu giữ gìn trong sáng mỗi khi sử dụng tiếng Việt.
Sự trong sáng của tiếng Việt được biểu lộ qua một số phương diện cơ bản như sau:
1. Nói hoặc viết đúng chuẩn mực, đúng quy tắc của tiếng Việt
Ví dụ:
– Nói: Chúng tôi chúc mừng các bạn (đúng ngữ pháp)
– Không nói: Chúng tôi tự hào các bạn (không đúng ngữ pháp)
(Xem thêm các câu a, b, c trong SGK)
Chuẩn mực không phù nhận những sự chuyển đổi linh hoạt, những sự sáng tạo, không phủ nhận cái mới, miễn là cái sáng tạo, cái mới phù hợp với phương thức chung, quy tắc chung.
Ví dụ:
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cò con.
(Nguyễn Duy, Tre Việt Nam)
Lưng, áo, con được sáng tạo theo nguyên tắc chuyển nghãi của từ theo phương pháp ẩn dụ, nên câu thơ trên vẫn đảm bảo được sự trong sáng của tiếng Việt, hơn nữa, lại có hình ảnh và gợi cảm.
Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập)
Từ tắm đã được sử dung với một nghĩa mới theo phương thức chuyển hóa của từ về ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp: câu văn không những trong sáng mà còn có giá trị biểu cảm cao.
2. Không cho phép pha tạp, lai căng một cách tùy tiện những yếu tố của một ngôn ngữ khác. Để cho tiếng Việt trong sáng, giàu có và phát triển một mặt cần tiếp thu những tinh hoa trong các ngôn ngữ khác, đồng thời tránh lạm dụng, pha tạp khi không cần thiết.
Ví dụ: Việt sử dụng hỗn tạp các loại ngôn ngữ hiện nay đã vi phạm cơ bản nguyên tắc trên. Trong lời nói hoặc viết hằng ngày, chúng ta dễ dàng bắt gặp từ tiếng Anh trong những câu tiếng Việt. Đây là một biểu hiện của sự pha tạp, lai căng trong sử dụng tiếng Việt.
3. Sự trong sáng của tiếng Việt cũng biểu hiện ở tính văn hóa, lịch sử của lời nói. Nói năng lịch sự, có văn hóa chính là sự biểu lộ sự trong sáng của ngôn ngữ. Ngược lại, nói năng thô tục, thiếu văn hóa, bất lịch sự tức làm cho tiếng Việt mất đi vẻ trong sáng vốn có của nó.
Ví dụ: Đoạn hội thoại giữa nhân vật lão Hạc và ông giáo trong truyện ngắn lão Hạc của Nam Cao: lời nói của họ đều thể hiện một ứng xử văn hóa, lịch sử (xem SGK).
II. Luyện tập
1. Tính chuẩn xác trong việc dùng từ ngữ của Hoài Thanh và Nguyễn Du khi lột tả tính cách các nhân vật trong Truyện Kiều.
1.1. Từ ngữ của Hoài Thanh
- Chàng Kim: rất mực chung tình
- Thúy Vân: cô em gái ngoan
- Hoạn Thư: người đàn bà bản lĩnh khác thường, biết điều nhưng cay nghiệt.
- Thúc Sinh: anh chàng sợ vợ
- Từ Hải: chợt hiện ra, chợt biến đi như một vì sao
- Sở Khanh: cái vẻ chải chuốt dịu dàng
- Bọn nhà chứa: cái xã hội ghê tởm đó sống nhơ nhúc.
1.2. Từ ngữ của Nguyễn Du
- Tú Bà: nhờn nhợt màu da
- Mã Giám Sinh: mày râu nhẵn nhụi
- Bạc Hà, Bạc Hạnh: miệng thề xoen xoét.
Những từ ngữ trên đây đã lột tả đúng thần thái và tính cách của từng nhân vật, đến mức tưởng như không thể có từ ngữ nào có thể đúng hơn, có thể thay thế cho các từ ngữ đó được.
2. Đặt lại các dấu câu vào vị trí thích hợp để đảm bạo sự trong sáng của đoạn văn
- Đặt dấu chấm (.) giữa hai dòng sông (ở dòng chữ đầu)
- Đặt dấu chấm (.) sau những dòng nước khác (ở dòng chữ thứ hai)
- Đặt dấu phẩy (,) sau dòng ngôn ngữ cũng vậy (ở dòng chữ thứ hai).