Phân tích thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Phân tích thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục

Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao

Huấn Cao là một người quân tử, đã cùng nhân dân đứng dậy khởi nghĩa chống lại triều đình thối nát và bị triều đình bắt và chờ ngày xử tử. Trong tù ông gặp viên quản ngục, ông là một người mê chữ đẹp và một người viết chữ đẹp. Để các bạn hiểu rõ hơn về thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục, một bên là đại diện cho công lí và một bên là đại diện của những kẻ nội loạn. Sau đây mình xin tổng hợp những bài viết hay, các bạn cùng tham khảo và cho ý kiến nhé.

Bài làm 1: Phân tích thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một tác phẩm có nhiều thành công lớn về nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp tương phản,… nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện ngắn. Điều đó được thể hiện sinh động qua tâm lí nhân vật chính của thiên truyện – nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến thái độ của ông đối với nhân vật viên quản ngục.

Huấn Cao là ai? Trong tác phẩm, nhân vật này được xây dựng với tất cảniềm yêu mến, quý trọng của tác giả. Đó là một người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, tài hoa vô song “có tài viết chữ”, văn võ song toàn. Chỉ vì không chịu bị giam cầm trong xã hội nhiều bất công ngang trái mà cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Kết cục, ông đành lỡ dở một đời tài hoa anh dũng, bị giam vào chốn ngục từ chờ án chém.

Không phải nơi nào khác, chính tại chốn ngục từ này là nơi “lí tưởng” để diễn ra cuộc đối đầu giữa hai luồng tư tưởng – hai thế lực thù địch: một bên là những quan lại quản ngục đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ, tàn ác đương thời; một bên là những kẻ “nổi loạn”, những tên “giặc cỏ” – những người anh hùng vì bất mãn cường quyền mà đứng lên khởi nghĩa.

Phân tích thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục

Phân tích thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục

Hiểu rõ điều đó hơn ai hết, ban đầu Huấn Cao đã tỏ rõ khí khái tiết nghĩa bằng thái độ coi thường miệt thị viên quản ngục. Nhưng hỡi ôi, sựđời vẫn vốn trái ngang như thế. Thối nát, bảo thủ, tàn ác là từ dùng cho ai kia, nó không hoàn toàn đúng với viên quản ngục tỉnh Sơn, nơi Huấn Cao bị giam. Viên quản ngục lại là một người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” rất mến phục, sùng bái tài viết chữđẹp của Huấn Cao và thực sự là kẻ còn lại chút “thiên lương”. Sau khi nhận ra điều ấy, Huấn Cao bằng tất cả sự cao đẹp của nhân cách một nhà nho chân chính đã cúi mình xuống, nâng dậy và phủi bụi cho một linh hồn đang trên bờ vực của tội lỗi. Huấn Cao dành những dòng chữ cuối đời mình tặng cho viên quản ngục, dành tiếng nói nhân tình vọng lên từ sâu thẳm tâm hồn khuyên giải viên quản ngục nhắc ông quay về với thiên lương.

Diễn biến thái độấy của Huấn Cao là một quá trình biện chứng phức tạp. Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tỉnh Sơn, Huấn Cao đã có một thái độ, việc làm đầy thách thức: “rỗ mạnh gông”. Trong cái “rỗ mạnh” rất tự nhiên ấy ẩn chứa một thái độ khinh bạc: gông cùm của các người có là gì? ta rỗ gông đuổi rệp, và các ngươi chẳng khác chi lũ rệp bám đen mặt đất kia. Vào trong nhà giam rồi, thái độ của ông vẫn không hề nhún nhường uốn mình hơn. Trong khi viên quản ngục vì tấm chân tình tội nghiệp mà hết lòng ưu ái cho ông và các bạn đồng chí thì ông luôn luôn ra mặt: “khinh bạc đến điều”. Khi viên quản ngục đến gặp ông trong nhà giam “khép nép” hỏi: “Ngài muốn gì xin cho biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì lạnh lùng trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Ông rất ung dung nơi bùn lấy khắc nghiệt ấy, thái độ này tất đã nằm trong toan tính của Huấn Cao: ông càng tỏ ra ung dung bao nhiêu càng tỏ lòng khinh bạc lũ “tiểu lại giữ tù” bấy nhiêu, chúng chằng hề làm ông lo sợ, chúng đang bị mất hết uy quyền.

Có thể nói, thái độ trên đây của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một tất yếu. Bởi ông chưa được rõ nỗi trái ngang trong số phận người quản ngục. Trong suy nghĩ của ông lúc này, hắn là đại diện cho cái chính quyền ông thù ghét: hắn là kẻ thù của ông. Mà Huấn Cao, con người ông đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn tiêu biểu cho nhân cách và khí phách người anh hùng. Ông đã xả thân vì đại nghĩa, cái chết còn coi nhẹ như lông hồng thì sao lại sợ kẻ giữ từ hèn mọn? Ông là con người đầy tự trọng “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình (…) bao giờ”. Câu nói khẳng khái ấy khiến ta nghĩđến ý thơ thanh cao của Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”, hay cái nhếch mép “Coi khinh nghìn lực sĩ” của Lỗ Tấn hay cái ý niệm sâu xa “Người đàn ông chỉ có thể quỳ trong hai trường hợp: Để uống nước nguồn và để hái hoa”. Với một nhân cách cao khiết như vậy, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo cái chính quyền suy mạt ông căm ghét: tất thảy bọn chúng chỉ là kẻđáng khinh, đáng coi thường mà thôi!

Thái độ này của Huấn Cao càng khiến người đọc cảm phục ông hơn nữa. Không cúi đầu trước ác quyền, tà lực; biết ghét cái ác đến tận cùng, điều đó chỉ có ở những con người có cái tâm rực rỡ như ánh dương, sáng trong nhưnước ngọt đầu nguồn và thanh cao như bông mai đầu núi.

Nếu câu chuyện đi theo chiều hướng ấy thì cũng đã rất hay. Nhưng ngòi bút  Nguyễn Tuân không muốn tuân theo những thói thường của cuộc sống(ông là một nhà văn đầy cá tính mà!). Viên quản ngục của Nguyễn Tuân thực chất không giống những viên quản ngục thông thường. Ông lại là một tâm hồn nhiều uẩn khúc kì lạ. Hiểu rõ con người ấy, Huấn Cao lại có một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại lúc ban đầu.

Ông đã thấy ân hận vì “biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, vì “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người rất “khoảnh” “trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối cùng của đời mình ông dành tặng người quản ngục. Chẳng những vậy, ông còn coi người ấy như chỗ tri âm đưa lời khuyên giải. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, ban lời trong tác phẩm gây nhiều niềm rung cảm cho người đọc, xứng đáng là một trong những áng văn đẹp nhất của văn học ViệtNam.

Đó quả thực là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy”. Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực, tài năng, và sự bay bổng vào cảnh này. Viết chữ, cho chữ, chiêm ngưỡng chữ thánh hiền… Cảnh tượng ấy vốn chỉ dẫn ra nơi thư phòng trang nghiêm, trịnh trọng của những người học rộng tài cao. Còn chốn ngục từ kia nơi “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián tưởng chỉ là nơi tận đáy cùng xã hội nhơ nhớp tanh hôi”. Nhưng vào cái đêm khuya thanh vắng trước ngày Huấn Cao về kinh chịu tội, việc cho chữ thiêng liêng đã diễn ra tại nơi mịt mù tăm tối kia. Ởđây, người cho chữ là con nợ rất mực tài hoa, người nhận chữ là viên quản ngục – người mà xã hội vốn chỉ coi là kẻđi bên lề cuộc đời sinh động cao cả này. Tâm thế người cho chữ – người tù trong sáng bay bổng thanh cao cùng cái đạo chữ thánh hiền mặc thể xác bị giam cầm “cổđeo gông chân vướng xiềng”. Người quản ngục “run run” khúm núm nhưđối nhận sự gia ơn của người tử tù.

Đêm sâu thăm thẳm, nhà lao âm u tĩnh mịch giữa đêm đen đặc quánh, sánh lại thứ âm khí tội lỗi, oan khiên tù ngục, bất ngờ rực lên ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đỏ rực bừng lên, “mùi mực tàu” thơm ngát. Ánh sáng của bó đuốc, mùi thơm của mực tàu hay chính là ánh sáng, hương thơm của nhân cách khí phách, của cái thần con chữ thánh hiền, ánh sáng rực rỡ của bó đuốc soi tỏ “ba cái đầu chụm lại” trên vuông lụa trắng tinh “còn nguyên vẹn lần hồ”. Cảnh tượng thiêng liêng và trang trọng quá! Bóng tối không làm tắt đi ngọn đuốc, màn đêm không phủđược màu trắng tinh của lụa, và sự hôi tanh của phân gián phân chuột không ngăn được mùi thực ngào ngạt tỏa lên ướp hương, tẩm vị vào tâm hồn con người.

Không gian im lìm tĩnh mịch, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Cao, tiếng nói của cái đẹp…, tiếng nói khuyên con người vềvới các Thiện “ởđây lẫn lộn ta khuyên thầy… về quê không ởđây nhem nhuốc” cả tâm hồn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thể nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hoá cái xấu, cái ác và nói nhưĐôtxtôiepki “Cái Đẹp đã cứu vớt nhân thế”. Lời khuyên chân tình của Huấn Cao “ởđây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều: Cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lần lộn với cái ác, cái xấu.

Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng. Tĩnh lặng để chocái Thiện, cái Đẹp bồi hồi ngân vang… Và khi ấy, Huấn Cao, người quản ngục, từ thếđối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ trang trọng với cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.

Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi li. Bởi thực tế Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ lại gặp nhau nơi lòng yêu mến, tôn sùng cái Đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họđi từ thếđối lập đến sự hòa hợp trong sự toả hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm một tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi tù ngục, lúc cuối đời ông đâu ngờlại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!

 

 Bài làm 2: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản nguc trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân

 Truyện ngắn “Chữ người tử tù” trong tập truyện “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm tiêu biểu và có nhiều thành công lớn về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp nghệ thuật đối lập,…nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện. Điều đó, thể hiện rõ nét quá tâm lí nhân vật Huấn Cao, đặ biệt là diễn biến tâm lí, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục.
Nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một anh hung, đầu đội trời, chân đạp đất; có tài viết chữ đẹp; văn võ song toàn. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội, nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo nên cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Nhưng cuộc khởi nghĩa không thành công, ông bị triều đình bắt giam vào chốn tù với án tử chờ ngày ra pháp trường.
Chính chốn ngục tù tăm tối ấy là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ khác thường giữa hai nhân vật khác thường : một bên là viên quản ngục – kẻ đạị diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ đương thời; một bên là người tử tù Huấn Cao – một kẻ “nổi loạn”; một anh hung vì bất mãn với cường quyền mak đứng lên khởi nghĩa. Xét về phương diện xã hội, họ là hai thế lực thù địch, đối lập nhau.
Hiểu rõ điều này hơn ai hết là Huấn Cao. Ông tỏ vẻ coi thường, khinh miệt viên quản ngụ. Nhưng sự đời nào ai biết trước chuyện gì, tưởng chừng viên quản ngục là kẻ xấu xa, bảo thủ; ai ngờ rằng con người ấy lại có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, có sở thích cao quý, rất mến và yêu cái tài viết chữ của ông Huấn. Sau khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi thái độ: từ khinh miệt, coi thường đến trân trọng yêu quý và vì thế, ông đã đồng ý cho chữ. Chẳng những vậy, Huấn Cao còn dành những lời nói cuối cùng vọng lên từ tâm hồn của một nhà nho chân chính khuyên giải viên quản ngục, nhắc ông quay về với thiên lương.
Nguyễn Tuân thật sự rất thành công trong việc khắc họa diễn biến tâm trạn phức tạp của Huấn Cao.
Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tính Sơn, trước uy quyền của nhà lao, Huấn Cao vẫ tỏ ran gang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường bằng việc làm đầy thách thức : “rõ mạnh gông”. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh dầu thang xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Vào trong nhà giam rồi nhưng ông vẫn ngang tàn, ko hề nhún nhường. “Suốt nửa tháng”, trong khi viên quản ngục vì mến tài viết chữ mà hết lòng ưu ái, “biệt đãi” ông và các đồng chí thì Huấn Cao tỏ vẻ : “khinh miệt đến điều”. Khi viên quản ngục “mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn” : “Ngài muốn gì xin cho tôi biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì ông khinh bạc, lạnh lung trả lời : “ Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn. Huấn Cao không thèm  đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ mà ông xúc phạm. Ông rất ung dung, bình thản.
Thái độ trên của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một điều tất yếu. Bởi vì, Huấn Cao chưa hiểu được tấm lòng của một người giữ tù. Trong suy nghĩ của ông Huấn, hắn chỉ là một con người xấu xa, tàn bạo; đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát ông thù hận : hắn là kẻ thù của ông. Huấn Cao đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn có nhân cách và khí phách của một người anh hung. Với nhân cách cao đẹp, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân, ăn bám theo cái chính quyền phong kiến tàn lụi mà ông căm ghét : tất cả bọn chúng chỉ là những kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi !
Nếu mạch truyện đi theo chiều hướng này thì cũng rất hay. Nhưng Nguyễn Tuân lại không muốn ik theo con đường tầm thường ấy. Mỗi tác phẩm của ông đều phải xuất sắc, đạt đến trình độ hoàn mỹ toàn diện. Như ta đã biết, Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn, ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Nhân vật hiện lên trong các tác phẩm của ông phải là hiện thân của cái đẹp. Nhân vật viên quản ngục không phải là ngoại lệ. Tìm ẩn trong con người ấy là cả một tâm hồn trong sáng với thiên lương cao quý. Để cho người đọc thấy rõ điều đó, Nguyễn Tuân đã mượn thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục- một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại ban đầu.
Huấn Cao cẩm thấy ân hận, ông “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”: “Ta cảm thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người “vốn khoảnh”, “trừ chỗ tri kỉ”, “ông ít cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối đời của mình, ông dành tặng người quản ngục. Có phải lúc bấy giờ, viên quản ngục đã trở thành “người tri kỉ” của Huấn Cao ?. Một người mà Huấn Cao tin tưởng trao “những nét chữ cuối cùng của mình”. Chẳng những vậy, ông còn coi viên quản ngục như chỗ tri âm mà khuyên giải: “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…tìm về quê mà ở…rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ơ đây khó giữ cho thiên lương lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Huấn Cao đã thay đổi hoàn toàn thái độ với viên quản ngục. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ đã gây nhiều rung cảm cho người đọc, xứng đáng là “cảnh tưởng” đẹp nhất trong văn học Việt Nam.
Đó quả thật là “cảnh tưởng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân chắc đã tập trung toàn bộ tài năng và sự lãng mạn, bay bổng vào cảnh này. Viết chữ hay cho chữ thường diễn ra ở nơi trang nhã thanh cao như thư phòng. Còn ở đây, lại diễn ra ở chốn ngục tù tăm tối. Lúc nửa đêm, trong nhà tù, vài canh giờ trước lúc ra pháp trường. Trong không gian trật hẹp, nơi mịt mù, tăm tối kia. Một người tù “cổ mang gông, chân vướng xiềng” đang tô dậm những nét chữ bay bổng “cuối cùng”. Cạnh bên là viên quản ngục đang khúm núm, sợ sệt.
Không gian im lìm, tĩnh lặng, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Cao, tiếng nói của cái đẹp,…tiếng nói khuyên con người về với cái thiện “ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy…về quê, không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn lẫn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thế nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hóa cái xấu, cái ác. Lời khuyên chân tình của Huấn Cao : “ Ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều : cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lẫn lộn với cái ác, cái xấu.
Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng để cho cái Đẹp, cái Thiện bồi hồi nhân vang….Và khi ấy, Huấn Cao và người quản ngục từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ, trân trọng cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.
Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi lí. Bởi thực tế, Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ gặp nhau nơi lòng yêu mến, tong sung cái đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập sàn hòa hợp trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi ngục tù, lúc cuối đời, ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!
Miêu tả thành công diễn biến tâm trạng, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm nhân cách cho nhân vật Huấn Cao-một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Đó là hình tượng cho một con người có nhân cách cao đẹp-một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện. Qua diễn biến tâm lí nhân vật Huấn Cao, nhà văn đã khẳng định hai điều : cái thiện  có thể sinh ra từ cái ác nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng với cái ác và cái thiện, cái đẹp có thể cảm hóa được con người.
Huấn Cao là một hình thượng văn học hoàn mĩ, đẹp đẽ nhất trong nền văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc, khô khan. Ngược lại, nó vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Với bút pháp xây dựng nhân vật độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một hình ảnh Huấn Cao vừa cao ngạo, bất khuất, vừa chân tình, tài hoa, biết yêu quý nghệ thuật, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương con người. Điều đó cũng khẳng định sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và thêm một lần nữa ngợi ca phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam.
Bài làm 3: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
Chữ người tử tù là truyện ngắn in trong tập Vang bóng một thời, xuất bản năm 1940. Đây là tác phẩm xuất sắc thể hiện rõ nhất quan niệm của Nguyễn Tuân về Cái Đẹp. Huấn Cao, nhân vật chính của truyện là một con người siêu việt, một nhân cách trong sáng. Qua sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn phong phú, cao quý của con người tài hoa ấy.
Ngay từ đầu tác phẩm, qua cuộc trao đổi giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã giới thiệu Huấn Cao như một nhân vật đặc biệt, ông là người văn võ kiêm toàn, có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp nổi tiếng khắp tỉnh Sơn. Huấn Cao bị vua quan coi là kẻ cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu “quân phiến loạn” chống lại triều đình.
Vừa có khí phách ngang tàng, vừa tài hoa thông tuệ, Huấn Cao quả là một tử tù đặc biệt. Có lẽ do cảm phục tài năng và nghĩa khí của Huấn Cao qua lời đồn đại nên viên quản ngục đã dành cho ông thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày, viên quản ngục sai thầy thơ lại mang rượu thịt xuống buồng giam tử tù cho Huấn Cao. Trước sự biệt đãi đó, thái độ Huấn Cao có những biến đổi khá phức tạp và chính sự thay đổi đó cho chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn và tính cách của ông.
Những ngày đầu trong ngục tối, thái độ Huấn Cao hoàn toàn dửng dưng và khinh bạc trước sự săn sóc quá đầy đủ ấy: Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép: Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây lạnh lắm… Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm. Đến khi viên quản ngục đích thân xuống buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng Huấn Cao là người có nghĩa khí và xin ông cho biết có cần gì thêm thì cứ nói để lo cho chu tất thì Huấn Cao đáp lại một cách trịch thượng: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đó là thái độ bất cần của một người anh hùng khí phách ngang tàng, không khuất phục trước cường quyền: Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này.
Nhưng không như ông Huấn Cao nghĩ, viên quản ngục khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý”. Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Nhiều khi, ông bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của viên quản ngục và cho rằng hẳn là viên quản ngục muốn dò đến những điều bí mật của ta, nhưng không phải, vì ông đã khai hết bên ti Niết cả rồi. Ngoài thái độ khinh bạc, lạnh lùng, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục.
Giữa chốn ngục tù tăm tối, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân ví như thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Có lẽ, sự dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục đã làm Huấn Cao động lòng.
Sự hiểu lâm và thái độ khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục mất hẳn trong một tình huống đầy kịch tính: Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông vào Kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi. Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi”. Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.
Sau khi nghe thầy thơ lại hớt hải bày tỏ ước nguyện tha thiết của quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi hẳn thái độ. Lúc này, Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò viên quản ngục và đồng thời nhận ra rằng viên quản ngục là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ.
Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, ông cảm động thực sự trước viên quản ngục có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức thú chơi chữ đẹp và trân trọng người sáng tạo ra Cái Đẹp. Trong câu nói của Huấn Cao với thầy thơ lại có chút ân hận và tự trách về sự hiểu lầm trước đó.
Ngay đêm hôm ấy, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã diễn ra ở chốn ngục tù. Đó là cảnh Huấn Cao cho chữ. Cái ẩm ướt, tăm tối của buồng giam tương phản với vẻ trang trọng, thanh cao của những nét chữ đẹp tươi do Huấn Cao viết ra và sự thăng hoa từ tâm hồn của hai kẻ tri âm. Cũng bởi yêu mến tính cách của viên quản ngục nên Huấn Cao đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành và thấm thía: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi… Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lần này là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong đời Huấn Cao cho chữ. Ông tự biết giá trị những chữ do mình viết ra là rất quý. Ba lần trước, ông cho chữ ba người bạn thân. Lần này, ông cho chữ kẻ mà trước đây chỉ ít phút, ông căm ghét và khinh miệt. Vậy điều gì đã xảy ra trong tâm hồn ông, khiến ông đi đến quyết định cho chữ quý? Lòng tự trọng của Huấn Cao đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, hơn nữa là sự kính trọng đã nâng viên quản ngục lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Chính điều đó làm cho Huấn Cao cảm động sâu sắc.
Cảnh ông Huấn Cao cho chữ vừa lạ, vừa đẹp như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có: Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:
–    Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” Lúc trước, ba người chưa hiểu nhau, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, họ gặp nhau ở một điểm chung là tấm lòng tha thiết yêu mến và trân trọng Cái Đẹp – Cái Đẹp chữ viết đi đôi với Cái Đẹp tâm hồn.
Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với con người và tính cách của ông. Tại sao trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lại thản nhiên đến lạnh lùng? Có lẽ viên quản ngục là người hiểu ông Huấn hơn cả nên không lấy làm oán thù thái độ của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng còn chẳng biết là có ai nữa, huống chỉ cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Bản chất ngang tàng, cứng cỏi của Huấn Cao uy vũ và tiền bạc không sao mua chuộc, lung lạc nổi thì sá gì sự đãi ngộ ít ỏi chốn lao tù! Huấn Cao giữ mình bởi ông chưa hiểu gì về viên quản ngục, ông cảnh giác đề phòng những âm mưu, mánh khóe thâm độc mà ông từng biết. Hơn nữa, giữa Huấn Cao và viên quản ngục có một khoảng cách rất lớn. Đó là khoảng cách giữa một kẻ tử tù và một kẻ đại diện cho cường quyền, bạo lực. Sâu xa hơn là khoảng cách giữa người tài cao đức trọng và kẻ tài thiểu đức sơ trong bậc thang giá trị. Trong hoàn cảnh ấy, thái độ cao ngạo, khinh bạc ban đầu của Huấn Cao là hợp lí. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục nổi giận mà ngược lại, càng khâm phục và kính nể Huấn Cao hơn.
Nếu như Huấn Cao không thay đổi thái độ đối với viên quản ngục thì đến cuối truyện, chắc hẳn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao không trọn vẹn. Nhưng Nguyễn Tuân đã không làm như vậy mà ông muốn Huấn Cao trở thành biểu tượng của Cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Khi biết được ước nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao đã vô cùng cảm kích. Sự chuyển biến trong thái độ của Huấn Cao cho chúng ta thấy rõ hơn phẩm chất cao thượng của ông. Ngoài tài năng và khí phách hơn người, Huấn Cao còn là một nhân cách lớn, biết nhìn nhận và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, dù vẻ đẹp ấy khuất lấp ở chốn không dành cho nó. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao là điều dễ hiểu, vì ông đã nhận ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài, sự dịu dàng và biết trọng người ngay của viên quản ngục. Mặt khác, Huấn Cao vốn có thiên lương trong sáng, có cái tâm tha thiết với con người, với cuộc đời cho nên sự gặp gỡ, đồng cảm giữa ông và viên quản ngục là điều tất yếu.
Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm. Qua đó, chúng ta hiểu sâu hơn bản chất cao quý của Huấn Cao. Ngoài tài năng, khí phách, Huấn Cao còn có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý. Chiều hướng tích cực trong cách nhìn nhận, đánh giá của Huấn Cao cho thấy viên quản ngục cũng là người đáng nể trọng. Đúng như nhận xét của Nguyễn Tuân, viên quản ngục là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ý thức bảo vệ, gìn giữ Cái Đẹp như một báu vật ở đời của viên quản ngục quả là hiếm hoi trong xã hội phong kiến suy tàn thời ấy.
Thái độ của Huấn Cao trước sau có khác: trước cao ngạo, lạnh nhạt, sau thân mật, ân cần nhưng vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng của một bậc chính nhân quân tử đối với nét đẹp trong phẩm cách con người, dù là nhỏ nhất, dù ở hoàn cảnh trớ trêu nhất. Thiên truyện chấm dứt bằng lời nói rưng rưng nghẹn ngào nhiều ý nghĩa của viên quản ngục.
Nguyễn Tuân đã thành công khi đặt hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục cạnh nhau. Hai nhân vật này bổ sung tính cách và soi sáng cho nhau để tôn vinh giá trị trường tồn của Cái Đẹp trong tác phẩm.
Với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đạt được ước nguyện khi tìm về và trân trọng ca ngợi những vẻ đẹp tinh thần truyền thống của dân tộc. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc, trong đó hình tượng Huấn Cao tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng mà con người tôn thờ và luôn khát khao vươn tới.
Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân có ngụ ý sâu xa gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong. Đồng thời, ông cũng kín đáo lồng vào đó nỗi đau chung cho cả dân tộc đang trong vòng nô lệ, tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời đều bị lũ thực dân, đế quốc chà đạp, vùi dập một cách bạo tàn.
Chúc các bạn học giỏi!

Thảo luận cho bài: Phân tích thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân