Phân tích đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô của H.Ban-dắc
Phân tích bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác của Ăng Ghen
Đề bài:
Em hãy viết bài văn phân tích đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô của H.Ban-dắc.
Bài làm:
Hô-no-rê đơ Ban-dắc (1799 – 1850), là nhà văn hiện thực lớn của nước Pháp nửa đầu thế ki XIX, nổi tiếng với bộ tiểu thuyết Tấn trò đời. Ban-dắc sinh ra trong một gia đình nông dân ở Tua, một tỉnh nhỏ. Sau đó cha mẹ ông chuyển lên Pa-ri buôn bán và phất lên nhờ cuộc cách mạng tư sản. Ban-dắc từng nuôi mộng làm giàu và muốn bước chân vào xã hội thượng lưu nên tự ý thêm vào tên họ mình chữ đơ, tức là dấu hiệu quý tộc. Kinh doanh thất bại, Ban-dắc chọn con đường văn chương và đã thành công. Với sự nghiệp sáng tác đồ sộ, Ban-dắc đã được Ăng-ghen đánh giá là “bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực” và các tác phẩm của ông là đỉnh cao của trào lưu văn học hiện thực Pháp thế kỉ XIX.
Tác phẩm tiêu biểu: Miếng da lừa (1831), ơ-giê-ni Grăng-đê (1833), Lão Gô-ri-ô (1834), Ảo mộng tiêu tan (1837 – 1843),…
Lão Gô-ri-ô là cuốn tiểu thuyết viết về sự suy thoái đạo đức của giai cấp tư sản trước mãnh lực của đồng tiền. Nhân vật chính là lão Gô-ri-ô – một nhà tư sản giàu có nhờ buôn bán lúa mì, luôn ôm mộng được trở thành người thuộc tầng lớp thượng lưu. Lão lấy một bà vợ dòng dõi quý tộc đã sa sút và sinh được hai cô con gái. Khi con gái đã trưởng thành, lão tìm mọi cách để hai cô lấy được chồng quý tộc. Cô lớn lấy bá tước. Cô út lấy chủ ngân hàng. Nhưng rồi lão Gô-ri-ô đã bị hai cô con gái “rượu” bòn rút hết tiền để ăn chơi phung phí. Cuối cùng, gia tài khánh kiệt, lão Gô-ri-ô phải đến ở trọ nhà bà Vô-ke dành cho kẻ nghèo. Trong nhà trọ có một tên tù khổ sai, một cô gái bị cha ruồng bỏ và một chàng sinh viên nghèo từ tinh lẻ lên Pa-ri học luật.
Lão Gô-ri-ô ốm nặng, sắp chết nhưng hai cô con gái không thèm đến thăm vì chúng còn bận đi dự tiệc. Lão Gô-ri-ô chết, chàng sinh viên nghèo Ra-xti-nhắc phải bỏ tiền ra làm đám tang cho lão. Trong đám tang của người cha tội nghiệp, hai cô con gái chỉ sai gia nhân đánh hai chiếc xe có gắn huy hiệu của dòng họ quý tộc nhà chồng đến thay cho sự có mặt của mình.
Lão Gô-ri-ô là tác phẩm xuất sắc kết tinh nhiều giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bộ tiểu thuyết Tấn trò đời. Lão Gô-ri-ô vừa là sản phẩm, vừa là nạn nhân thê thảm của cái xã hội kim tiền mà lão đã tích cực tạo nên nó.
Phân tích đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô của H.Ban-dắc
Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô nằm ở phần cuối tác phẩm. Ban-dắc đã đẩy tấn thảm kịch về số phận của lão Gô-ri-ô lên tới đỉnh điểm. Đoạn trích gồm bốn phần và tiêu đề từng phần có thể đặt như sau:
- Phần 1 : Từ đầu đến… mấy tí: Từ quán trọ của bà Vô-ke đến nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy-Mông.
- Phần 2: Đến đây đến…ngồi cùng: Cuộc hành lễ ở nhà thờ.
- Phần 3: Không có người đưa đám đến… bèn bỏ đi: Từ nhà thờ Thánh-Ê- chiên-đuy-Mông đến nghĩa trang Cha-La-se-dơ.
- Phần 4: Còn lại: Ra-xti-nhắc ở lại một mình sau khi chòn cất lão Gô-ri-ô.
Lão Gô-ri-ô tuy đã chết nhưng vẫn là nhân vật trung tâm của đoạn trích. Ban-dắc dùng nhiểu biện pháp nghệ thuật để khắc họa số phận bất hạnh và cái chết cô độc, bi thảm của người cha bị các con ruồng bỏ.
Đám tang lão Gô-ri-ô được tác giả kể với những chi tiết cụ thể về không gian, thời gian, ánh sáng cùng sự âm thầm, lặng lẽ và số người tham dự vốn đã ít ỏi lại cứ rút lui dần dần; nghi lễ thì tiến hành hết sức sơ sài. Miêu tả đám tang bằng ngần ấy chi tiết, nhà văn không chi làm nổi bật bi kịch của một người cha mà còn vẽ lên một bức tranh xã hội mang tính chất bi hài kịch về mối quan hệ giữa người với người xoay quanh cái trục quay duy nhất là đồng tiền. Qua đó, nhà văn đã phản ánh chân thực và sinh động bản chất thối nát của xã hội tư bản – xã hội mà đồng tiền, dục vọng và những ham muốn thấp hèn được đặt lên trên cả những tình cảm thiêng liêng như tình phụ tử.
Đám tang lão Gô-ri-ô được tác giả đặt vào không gian và thời gian được xác định cụ thể. Đây là đặc điểm dễ nhận thấy trong bút pháp hiện thực của Ban-dắc, đem lại cho người đọc cảm tưởng là câu chuyện xảy ra như thật, về thời gian, nhà văn luôn chú ý đến sự chính xác từng phút. Ba lần yếu tố giờ giấc được nhắc đến trong đoạn trích. Theo lời kể thì nghi lễ dành cho đám tang lão Gô-ri-ô được cử hành ở nhà thờ chỉ hết hai mươi phút. Ngay sau đó vị linh mục nói: …chúng ta có thể đi nhanh để khỏi chậm trễ, đã năm giờ rưỡi rồi. Người kể chuyện lại cho biết đến sáu giờ tối thì xác lão Gô-ri-ô được hạ huyệt.
Những địa điểm được nhắc đến trong câu chuyện cũng góp phần tô đậm ấn tượng như thật, nhất là đối với những người dân đã từng sống ở Pa-ri. Quán trọ của bà Vô-ke có địa chi cụ thể là ở phố Mới-Nữ-thánh-Giơ-nơ-vi-e- vơ. Nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy-Mông là ngôi nhà thờ nhỏ ở quảng trường Păng-tê-ông. Nghĩa trang Cha-La-se-dơ cũng là một nghĩa trang có thật ở Pa- ri. Tuy nhiên, những địa điểm ấy được tác giả đặt trong thời điểm và không gian của một ngày tàn, một buổi hoàng hôn ẩm ướt nên càng làm tăng thêm tính bi thảm cho đám tang con người bất hạnh.
Ánh sáng mờ mờ trong ngôi giáo đường đã nhỏ lại thấp và tối; cảnh hoàng hôn ẩm ướt, xám xịt làm nền cho cái đám tang sơ sài đến đau lòng.
Khung cảnh càng ảm đạm hơn khi chiếc xe tang dần dần rời xa trung tâm thành phố đã lên đèn để đi về phía ngoại ô đang nhòa dần trong bóng đêm bắt đầu buông xuống.
Nghĩa trang vắng vẻ, lặng lẽ đến rợn người. Nhà văn như cố tình bỏ qua không nhắc đến tiếng động. Không có tiếng xe ngựa không có tiếng cuốc xẻng, không có những lời cầu kinh cho người quá cố. Không phải ngẫu nhiên nhà văn chủ yếu sử dụng ngôn ngữ gián tiếp của người kể chuyện.
Trong đoạn văn chỉ có ba lần lời nói trực tiếp của các nhân vật được nhắc lại. Đó là ba câu ngắn ngủi. Câu thứ nhất là của Cri-xtô-pho, gia nhân trong quán trọ của bà Ve-ke nói với Ra-xti-nhắc khi nghĩ tới lòng tốt của lão Gô-ri-ô đối với anh ta lúc còn sống và lúc Ra-xti-nhắc xiết chặt tay anh ta mà không thốt nên lời:
– Đúng thế đấy, cậu ơ-gien ạ. Ông cụ là người tử tế và đứng đắn, chưa bao giờ to tiếng, không thể làm hại ai và chưa từng làm đều gì nên tội.
Câu nói gợi lên nghịch lí là người chết càng hiền lành tốt bụng bao nhiêu thì đám tang càng có vẻ xót xa, trớ trêu bấy nhiêu. Lão Gô-ri-ô suốt đời hi sinh vĩ các con, hi sinh đến quên mình. Lão là chúa trời của tình phụ tử. Lời nhận xét của Cri-xtô-phơ tò ra anh ta có thiện cảm với lão Gô-ri-ô, nhưng nó cũng không thể bù đắp được sự thiếu vắng của tình người là điểu mà Ban- dắc muốn thể hiện khi miêu tả đám tang lão Gô-ri-ô.
Câu thứ hai là của vị linh mục:
– Không có người đưa đám… chúng ta có thể đi nhanh để khỏi chậm trễ, đã năm giờ rưỡi rồi.
Thật mủi lòng khi phải chứng kiến một đám tang không có ai là người thân đưa tiễn! Chỉ có một nhúm người dưng đếm trên đầu ngón tay. Đi theo chiếc xe tang chở người quá cố từ quán trọ đến nhà thờ Thánh-Ê-chiên-đuy- Mông chĩ có bốn người: Ra-xti-nhắc, Cri-xtô-phơ và hai gã đô tùy (người khiêng quan tài). Lúc hành lễ có thêm bốn người nữa là hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bo nhà thờ. Khi xe chuyển bánh đến nghĩa trang thì có thêm hai gia nhân trên hai chiếc xe ngựa không người ngồi của Bá tước Đơ Re-xtô – chồng cô con gái lớn – và của Nam tước Dơ Nuy-xin-ghen – chồng cô con gái út của lão Gô-ri-ô, nhưng lại bớt đi người bo nhà thờ và một vị linh mục. Số người ít ỏi kia cứ bỏ về dần. Đầu tiên là bọn gia nhân của hai cô con gái cùng với vị linh mục và chú bé hát lễ sau khi đọc xong bài kinh ngắn ngủi. Rồi đến hai gã đô tuỳ sau khi vùi lấp huyệt mộ sơ sài, đòi thêm tiền công và cuốn gói. Cri-xtô-phơ cũng bỏ đi nốt, chi còn lại một mình Ra-xti- nhắc bên nấm mộ của lão già bất hạnh.
Câu thứ ba là của Ra-xti-nhắc:
– Giờ đây còn mày với ta!
Giọng điệu của chàng sinh viên lúc này như muốn thách thức cái xã hội thượng lưu, nhưng thực ra nó báo hiệu sự đầu hàng. Từ nay, chàng sẽ cố gắng len lách để đặt được chân vào xã hội của tầng lớp thượng lưu. Chàng sẽ chấp nhận lối sống lạnh lùng, tàn nhẫn của nó. Chàng sẽ làm tất cả để được giàu sang.
Ngòi bút hiện thực của Ban-dắc thường là cụ thể, ti mi, hầu như không bỏ sót chi tiết nào khi kể và tả. Nhưng điều lạ là ở đoạn trích Đám tang lão Gô- ri-ô, nhà văn chỉ kể mà không tả và cũng cổ ý kể lướt qua chứ không dựng lại đầy đủ một cảnh nào cả. Vì thế nên người đọc không thể hình dung rõ ràng nghi lễ cử hành ở nhà thờ và việc chôn cất ở nghĩa trang ra sao. Những biện pháp nghệ thuật nêu trên nhằm rút ngắn đoạn văn viết về đám tang lão Gô-ri-ô, để mọi người Hôn tưởng và cảm nhận ngay trên trang giấy tính chất sơ sài quá đáng của mọi thủ tục tang lễ. Nhà văn Ban-dắc chẳng cần giấu diêm nguyên nhân của sự sơ sài đó mà cố ý cho mọi người thấy rõ là do lão Gô-ri-ô chết trong cảnh túng thiếu, không tiền.
Lão Gô-ri-ô là nạn nhân của thói đời đen bạc. Các nhân vật khác dưới ngòi bút của Ban-dắc đều ít nhiều bị biến chất trong xã hội tư bản coi trọng đồng tiền. Hầu như họ đều hành động vì tiền chứ không phải vì tình thương đồng loại. Đó là vị linh mục, hai gã đào huyệt, Cri-xtô-phơ, bọn gia nhân, hai cô con gái lão Gô-ri-ô đã chứng minh cho tình người bạc bẽo vì bị đồng tiền chi phối. Trong một đoạn văn không dài lắm mà nhiều lần nhà văn nhắc đến đồng tiền với giọng, kể tưởng như dửng dưng vô tình mà thực ra là đầy ẩn ý phê phấn.
Trước tiên là hình ảnh các vị linh mục trong buổi hành lễ ở nhà thờ và ở nghĩa trang : Hai vị linh mục, chú bé hát lễ và người bõ đi đến, họ tiến hành tất cả những nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy mươi quan trong một thời kì mà tôn giáo không lấy gì làm giàu lắm để cậu kinh làm phúc… Nghi lễ cử hành hết hái mươi phút Không có người đưa đám, vị linh mục nói, chúng ta có thể đi nhanh để khỏi chậm trễ, đã năm giờ rưỡi rồi… Bài kinh ngắn ngủi cầu cho lão do chàng sinh viên trả tiền, vừa đọc xong là bọn họ cùng với đám người nhà đạo biến ngay.
Còn anh chàng gia nhân Cri-xtô-phơ ỗ quán trọ của bà Vô-ke thì tự nghĩ có bổn phận thực hiện những nghĩa vụ cuối cùng đối với một người đã làm cho anh kiếm được mấy món tiền đãi công kha khá. Hai gã đào huyệt mới hất được vài xẻng đất thì đã đòi tiền đãi công, ơ-gien Ra-xti-nhắc móc túi không còn đồng nào, buộc phải vay Cri-xtô-phơ hai mươi xu. Liệu cái nhìn của Ban- dắc đối với nhân tình thế thái qua những con người ấy có bi quan, đen tôi quá không?!
Hai cô con gái “cưng” của lão Gô-ri-ô thì sao? Họ được Ban-dắc nhắc đến ba lần. Lần thứ nhất là khi chiếc xe tang chở thi hài của người cha đến nhà thờ. Ở trong nhà thờ, chàng sinh viên Ra-xti-nhắc đã hoài công tìm vợ chồng hai cô gái. Lần thứ hai là lúc xác chết được đặt lên xe tang và xe chuẩn bị chuyển bánh thì xuất hiện hai chiếc xe có treo huy hiệu nhưng không có người ngồi, một của Bá tước Đơ Re-xtô và một của Nam tước Đơ Nuy-xin-ghen. Lần thứ ba là trong suy nghĩ của chàng sinh viên Ra-xti-nhắc khi nhớ đến chuyện sẽ đi ăn tối ở nhà phu nhân Đơ Nuy-xin-ghen (tức con gái út của lão Gô-ri-ô). Lần đầu, tác giả gợi về quá khứ, hai lần sau nhắc đến hiện tại. Thoạt tiên, người kể chuyện gọi họ bằng tên thời con gái:
Đen-phi và A-na-xta-di. Hai lần sau, người kể chuyện gọi họ bằng tên của các đức ông chổng quý tộc : Bá tước Đơ Re-xtô và Nam tước Đơ Nuy-xin-ghen. Ý đồ nghệ thuật của nhà văn bộc lộ rõ ràng qua cách sử dụng ngôn ngữ khi nói về hai cô con gái của lão Gô-ri-ô. Người đọc hình dung được quá trình biến chất, thoái hoá đạo đức của những đứa con bất hiếu ấy. Chồng của cô chị là một quý tộc, chồng của cô em là chủ ngân hàng. Địa vị phu nhân bá tước và phu nhân của chủ ngân hàng đã giết chết tâm hồn trong trắng của A-na-xta-di và Đen-phin. Thật bất hạnh cho người cha Gô-ri-ô khi có những đứa con như vậy! Ở cùng thành phố nhưng chúng cố tình lánh mặt cha, xấu hổ vì cha không còn giàu có như xưa. Lúc cha ốm đau, chúng không đến thăm vì còn mải chạy theo những thú vui riêng. Khi cha chết, chúng không thèm có mặt để vuốt mắt cho cha và đưa cha về nơi an nghi cuối cùng mà chỉ cho hai chiếc xe của nhà chồng đến để thay lời vĩnh biệt. Đau xót thay, lão Gô-ri-ô lại là người cha thương con rất mực! Hai đứa con gái là tất cả tình yêu và niềm hi vọng của lão.
Hình ảnh hai chiếc xe nhà có gắn huy hiệu quý tộc mà không có người ngồi là chi tiết rất đắt được nhà văn đưa vào cảnh đám tang lão Gô-ri-ô. Nó vừa là sự có mặt vừa là sự vắng mặt của hai cặp vợ chồng Dơ Re-xtô và Đơ Nuy-xin-ghen, nhưng chủ yếu là của hai cô vợ vắng mặt thật và có mặt giả. Nó nhắc cho mọi người nhớ rằng lão Gô-ri-ô có tới hai cô con gái và đều lấy chồng giàu sang. Nó làm tăng thêm tính chất bi thảm cho số phận và đám tang của người cha khốn khổ. Nó lên án mạnh mẽ và kết tội những kẻ trọng tiền khinh nghĩa. Nếu không có hai chiếc xe ấy, chắc người xấu số nằm trong quan tài kia sẽ đỡ đau đớn hơn và những người chứng kiến đám tang ấy cùng người đọc cũng sẽ đỡ xót xa hơn. Thời gian sẽ làm cho mọi người quên đi nhiều chi tiết, thậm chí quên cả hai cô con gái của lão Gô-ri-ô nhưng chắc chắn sẽ nhớ mãi hình ảnh hai chiếc xe không – tiêu biểu cho sự giả dối và thói đời đen bạc.
Chàng sinh viên Ra-xti-nhắc – hàng xóm cùng nhà trọ – có mặt từ đầu đến cuối đám tang lão Gô-ri-ô với mục đích hoàn toàn khác với các nhân vật kia. Chàng lo cho đám tang với tấm lòng của một con người nhân ái. Nhà văn Ban-dắc tỏ ra có thiện cảm với nhân vật này và truyền thiện cảm ấy đến người đọc. Chúng ta xúc động về tấm lòng đáng quý của chàng sinh viên nghèo đối với lão Gô-ri-ô, về hành động xiết chặt bàn tay Cri-xtô-phơ mà không nói nên lời,… về những giọt nước mắt trào ra vì những mối xúc động thiêng liêng cùa một trái tim trong trắng, cái thứ nước mắt rơi xuống mặt đất, rồi từ đó lại vút lên đến tận trời cao.
Song đấy cũng là những giọt nước mắt cuối cùng của người trai trẻ có tâm hồn thánh thiện. Ban-dắc muốn xây dựng Ra-xti-nhắc thành một nhân vật dần dần bị biến chất trong xã hội tư bản tôn thờ tiền tài và danh vọng. Lúc chôn lão Gô-ri-ô cũng chính là lúc Ra-xti-nhắc chôn vùi tất cả tình cảm đẹp đẽ của mình. Giọt nước mắt đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tính cách, trở thành cái mốc phân chia hai giai đoạn của cuộc đời Ra-xti- nhắc. Tấn thảm kịch của lão Gô-ri-ô không đủ sức cảnh tỉnh và làm cho Ra- xti-nhắc sợ hãi cái xã hội thượng lưu tàn nhẫn và đạo đức giả đương thời.
Kết thúc đoạn trích là cảnh chàng trai trẻ Ra-xti-nhắc còn lại một mình sau khi chôn cất lão Gô-ri-ô:
Ra-xti-nhắc còn lại một mình, đi mấy bước về phía đầu nghĩa địa, chàng nhìn thấy thành phố Pa-ri nằm khúc khuỷu dọc hai bờ sông Xen, ở đó ánh đèn bắt đầu lấp lánh. Đôi mắt chàng gắn chặt gần như thèm thuồng vào khoảng giữa cột đồng trụ của quảng trường Văng-đôm và đinh mái tròn điện Anh-va-lit, khoảng đó là nơi sinh hoạt của cái xã hội thượng lưu chàng đã muốn thảm nhập. Chàng nhìn cái tổ ong rào rào ấy bằng con mắt hình như muốn hút trước nước mật của nó, và chàng nói những lời to tát này:
– Giờ đây còn mày với ta!
Và, để mở màn cho cuộc thách thức của chàng đối với Xã Hội, Ra-xti-nhắc đi ăn bữa tối ở nhà phu nhân Đơ Nuy-xin-ghen.
Mầm mống của sự chuyển biến tính cách này thực ra đã có từ lâu trong con người Ra-xti-nhắc, nhưng bây giờ mới là thời điểm quyết định, vẫn đôi mắt lúc nầy trào ra những giọt lệ xót thương nhưng bây giờ nó lại gắn chặt gần như thèm thuồng vào trung tâm của xã hội thượng lưu giống cái tổ ong rào rào với cái nhìn như muốn hút trước nước mật của nó. Xã hội thượng lưu có một ma lực khủng khiếp cuốn hút chàng sinh viên nghèo tình lẻ đang muốn đổi đời.
Dưới ngòi bút của Ban-dắc, cái khoảng giữa cột đồng trụ của quảng trường Văng-đôm và đỉnh mái tròn điện Anh-va-lit vừa là khung cảnh hiện thực về nơi sinh hoạt của những kẻ giàu sang, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho xã hội thượng lưu thời đó. Ra-xti-nhắc say mê ngắm nhìn, hình dung nó như một đối tượng mà anh phải đương đầu và chiến thắng. Không phải ngẫu nhiên mà Ban-dắc viết hoa từ Xã Hội ở câu cuối cùng. Chi tiết kết thúc đoạn trích và cũng là kết thúc tác phẩm đã mỗ ra một quá trình tha hóa mới. Một con người, một số phận vừa bị xã hội thượng lưu huỷ hoại không đủ sức dập tắt tham vọng củạ kẻ khác và một cuộc hủy diệt nhận tính mới lại bắt đầu. Đám tang lão Gô-ri-ô kết thúc cuốn tiểu thuyết, khép lại cuộc đời nhân vật Gô-ri-ô, nhưng lại mở ra với cuộc đời của Ra-xti-nhắc. Sang những cuốn tiểu thuyết khác, nhà văn để cho nhân vật này ngày càng leo cao trên nấc thang danh vọng, nhưng càng leo cao thì tâm hồn trong trắng của chàng sinh viên nghèo ngụ tại quán trọ của bà Vô-ke ngày xưa lại càng xuống thấp trong nấc thang giá trị đạo đức và nhân cách con người. Đó cũng là ý nghĩa tố cáo sâu sắc xã hội tư bản của tiểu thuyết Ban-dắc.