Phân tích đoạn trích chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ
Phân tích đoạn Lục Vân Tiên gặp nạn
Đề bài:
Phân tích đoạn văn Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Bài làm:
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), tên thường gọi là Chiêu Hổ, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương. Cha đậu cử nhân và ra làm quan dưới triều Lê. Từ thuở nhỏ, Chiêu Hổ đã ôm ấp mộng văn chương. Sau này, ông vào học trường Quốc Tử Giám và thi đậu sinh đồ, nhưng vì thời thế không yên nên đành lánh về quê dạy học. Năm 1821, vua Minh Mạng nhà Nguyễn tuần du ra Bắc. Phạm Đình Hổ dâng một số trước tác lên nhà vua và được bổ nhiệm một chức quan ở Viện hàn lâm. Được một thời gian, ông xin nghỉ việc. Đến năm 1826, Minh Mạng lại triệu Phạm Đình Hổ vào kinh đô Huế nhậm chức Tế tửu Quốc Tử Giám, rồi Thị giảng học sĩ.
Phạm Đình Hổ bắt đầu sáng tác từ thời Tây Sơn, nhưng chủ yếu là vào những năm đầu của triều Nguyễn. Ông để lại nhiều tác phẩm, trong đó giá trị nhất là hai thiên kí sự Vũ trung tuỳ bút và Tang thương ngẫu lục.
Vũ trung tùy bút gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tuỳ bút, cung cấp cho người đọc những kiến thức về văn hóa truyền thống, về phong tục tập quán và đặc điểm địa lí cùng những danh lam thắng cảnh của quê hương, đất nước.
Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh ghi chép lại những cảnh sinh hoạt diễn ra hằng ngày ở phủ Chúa thời Trịnh Sâm. Qua đó, tác giả ngầm lên án thói ăn chơi xa xỉ, vô đạo đức của Trịnh Sâm và bọn quan lại hầu cận dưới quyền.
Lúc mới lên ngôi Chúa, Trịnh Sâm là con người cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí tuệ hơn người. Nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương cho triều đình thì dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích. Chúa Trịnh say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc, phế con trưởng lập con thứ, gây nên rất nhiều điều bạo ngược, dẫn đến cảnh nồi da xáo thịt. Các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau. Trịnh Sâm mất năm 1782, ở ngôi Chúa được 16 năm.
Thói ăn chơi ngông nghênh, xa xi của Trịnh Sâm và lũ quan lại hầu cận được tác giả miếu tả qua những chi tiết tiêu biếu như Trịnh Sâm cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài ở các nơi để thoả mãn ý thích đi chơi, ngắm cảnh đẹp của mình. Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục trong nhiều năm, hao tốn không biết bao nhiêu là tiền của. Không mấy quan tâm đến lợi ích to lớn của quốc gia, dân tộc, ngược lại, Chúa Trịnh dành rất nhiều thời gian để hưởng lạc:
Mỗi tháng ba bổn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.
Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hô tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vài khúc nhạc
.
Trong đoạn văn này, Các giả đã phơi bày bản chất tham lam của Chúa Trịnh và bè lũ tay sai. Cậy quyền cậy thế, chúng trắng trợn ép buộc dân lành phải cung nộp cho phủ Chúa những thứ quý giá mà Chúa thích:
Buổi ẩy, bao nhiễu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng phải một cơ binh mới khiêng nổi…
Tác giả vạch rõ lòng tham vô đáy của Chúa Trịnh bằng nghệ thuật kể chuyện và miêu tả. Các dẫn chứng đưa ra đều khách quan, không xen lời bình. Một vài sự kiện được miêu tả tỉ mỉ, gây ấn tượng rất sâu đậm đôi với người đọc.
Thái độ bất bình của tác giả thể hiện khá kín đáo trong những câu văn đầy ẩn ý:
Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vờ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực của những khu vườn lộng lẫy, đầy trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, được bày vẽ, tô điểm cho giông thiên nhiên nơi bến bể, đầu non, nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đó tan tác, đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình, thơ mộng. Đó là triệu bất tường, tức là điềm gở, báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hồi, nước mắt và cả xương máu của dân lành. Quả thực điều đó đà xảy ra sau khi Trịnh Sâm mất không lâu.
Thời Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong phủ Chúa được sủng ái bởi chúng rất đắc lực trong việc giúp Chúa bày ra các trò ăn chơi hưởng lạc. Vì vậy nên chúng thường ỷ thế Chúa mà hoành hành, tác oai tác quái, “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu, vơ vét của dân lành bằng nhiều thủ đoạn hèn hạ, độc ác. Thủ đoạn mà chúng thường sử dụng là hành động vừa ăn cướp, vừa la làng. Người dân bị hại tới hai lần, bằng không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ tài sản của mình để tránh tai vạ. Đó là điều hêt sức vô lí, bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét đế ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc cung phụng Chúa:
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để doạ lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn nham hiểm, độc ác của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Đù tiếc đứt ruột nhưng chủ nhà phải sai đầy tớ chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý trong vườn đề tránh tai hoạ:
Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.
Kiểu dẫn dắt câu chuyện như thế đã làm gia tăng đáng kể sức thuyếi phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong phú và sinh động. Cảm xúc của tác giả cũng được gửi gắm một cách kín đáo qua đó.
Qua đoạn văn này, tác giả tố cáo bọn quan lại trong phủ Chúa Trịnh vừa tham vừa ác, làm trái với đạo trời và lòng người. Tất yếu, nhân dân sẽ vùng lên lật đổ chúng.
Câu chuyện được tác giả ghi chép rất tự nhiên. Những chi tiết, hiện tượng chân thực được miêu tả tỉ mỉ mà không nhàm chán, xen kẽ những lời binh ngắn gọn, sắc sảo càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của tác phẩm.