Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh (Mẫu 3)
Cảm nhận của em về bài thơ Con cò của Chế Lan Viên
Bài làm
Về bước đi của thời gian, ta đã từng biết hai câu thơ tuyệt vời của Nguyễn Du : “Sen tàn, cúc lại nở hoa – Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” (Truyện Kiều). Điệu thơ tuy uyển chuyển, nhưng mùa nọ mùa kia tiếp nối nhau bằng sự ngắt nhịp rõ ràng. Đó là dạng thức của bước đi thời gian trong thơ tự sự. Với thể loại trữ tình, sự chuyển động của thời gian không vận hành theo quy luật ấy. Giãi bày cái tôi chủ thể, ấn tượng về thời gian được khắc hoạ sâu hơn, ở tâm trạng và cả ở sự kết tinh, có khi chỉ trong một khoảnh khắc của phút giao mùa. Lại nữa, nói về bốn mùa xuân hạ thu đông, trong thơ Việt Nam nói riêng và thơ phương Đông nói chung không hẳn có sự bình quân, dàn trải. Có thể có những lí do để mùa thu được chú ý nhiều hơn. Vậy có gì khác nhau giữa những bài thơ viết về mùa thu ấy ? Trước Hữu Thỉnh, hình như trong thơ, mùa thu đã sớm định hình, sự định hình trong trạng thái ổn định (như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Du) hoặc có vận động cũng là sau một cái mốc tuy vô hình nhưng có một cái gì đó đã phân chia (như Xuân Diệu, Huy Cận). Còn đến Sang thu, cách lựa chọn khoảnh khắc thời gian đã khác. Chưa có một sự định hình, nó bắc cầu giữa cái không và cái có. Chính cái cảm giác mơ hồ và tinh tế này chuyên chở hồn thu theo cái cách của mùa thu. Nhạy cảm, nhẹ nhàng, mùa thu đến vừa lạ vừa quen, nó đánh thức nơi ta những gì da diết lắm.
Nếu đặt tiêu đề cho khổ một bài thơ thì có thể gọi tên: bước chân của mùa thu đang ngập ngừng trước cửa.
Bổng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Nó ngập ngừng “hương ổi” trong cơn gió đầu mùa (gió se). Cái ấm và cái lạnh giao nhau. Còn gì ấm áp nồng nàn bằng hương hoa vườn tược, với trái ngọt mùa màng. Nó đánh thức tuổi thơ. Nó xôn xao hoài niệm. Đột ngột và trẻ trung, câu thơ mang hai tầng nghĩa : tầng thứ nhất là từ những gì nhận thấy (hướng ngoại), tầng thứ hai là những gì cảm thấy tự thân (hướng nội). Nhưng một thứ hương ổi hào phóng vô tư bỗng vì sao chững lại ở ngay câu sau đó “Phả vào trong gió se” ? Vì mùa hạ đã lặn vào quả ngọt, đã dâng hiến hết mình.
Cơn gió bây giờ chỉ còn xào xạc, hắt hiu. Nó se lạnh, hao gầy. Trạng thái phân đôi là tất yếu. Hai câu thơ như một thoáng chốc bâng khuâng. Sự bối rối tràn cả sang câu dưới, dù không còn “hương ổi”, “gió se” mà là:
Sương chùng chình qua ngõ
Thấp thoáng một vạt sương thu mờ ảo nhưng không phải thức ngủ chập chờn. Nó “chùng chình” nửa ở nửa đi, nghĩa là chính nó cũng phân tâm, vô định. “Sương” đang lưu luyến đợi chờ ai hay nuối tiếc một cái gì. Chính cái mơ hồ ấy có sức khám phá và gợi khơi một toạ độ thời gian không rõ nét : “Hình như thu đã về”. Thành công của khổ thơ không phải là tả cảnh, mà chính là sự rung rinh cảm nhận một cái gì như có như không mà chúng ta đã nói. Ấy là những giờ phút đầu tiên của mùa thu chợt tới, nó chợt tới trong rất nhiêu ngơ ngác, bâng khuâng. Cái hay trong cảm nhận ấy lại kết hợp một cách hồn nhiên với vẻ đẹp làng quê của ngàn năm cổ tích đầy ắp những hương ổi, hương cau, đường làng ngõ xóm,… thân mật đơn sơ.
Hai khổ còn lại của bài thơ mới đúng là thơ tả cảnh. Nhưng “cảnh” trong thơ hiện đại không giống với thơ xưa. Cảnh không “tĩnh”, mà rất có hồn. Biện pháp đối lập ở đây cũng khác :
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầy vội vã
Chất hiện thực hiện ra thật rõ. Cái “dềnh dàng” của sông là sau lúc vượt ghềnh leo thác nhọc nhằn. Còn giờ đây là thời khắc thơ thói, nghỉ ngơi hiếm có. Tính chất “thân phận” rất đáng cảm thương của dòng sông đồng cảnh ngộ với cánh chim trời. Mùa thu chợt đến, nó phải gấp gáp làm tổ, tha mồi chuẩn bị cho mùa đông rét mướt. Hai tốc độ trái chiều nhau giữa chậm và nhanh là quy luật không dồng đều ở vào thời điểm giao thoa của muôn loài, muôn vật. Ở dây, ta nhận ra cái nhìn của nhà thơ không phải dửng dưng của một người ngoài cuộc. Phải gắn bó với cuộc đời, phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” cùng những buồn vui nhân thế đến đâu mới viết được những câu thơ không hời hợt ấy. Chỉ có điều : cả hai câu thơ là đặc trưng cho mùa thu ở vào cái lúc khới đầu. Nó không phẳng lặng, trôi xuôi, êm đềm như cách nhìn trước đây của những bậc tao nhân mặc khách. Cái nhìn vừa đặc trưng vừa hiện đại ấy phải đến hai câu sau mới thật thần tình:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa minh sang thu
Mùa hạ, mùa thu là hai đầu bến và đám mây là nhịp cầu Ô Thước vắt qua. Nhịp cầu thật duyên dáng nối hai bờ thời gian bằng vẻ đẹp mềm mại, trữ tình. Tứ thư này thật ra không hoàn toàn mới mẻ. Chẳng hạn trong thơ Nguyễn Khuyến : “Trước đèn nâng chén rốn ngồi – Một câu thơ vịnh kéo đôi năm liền” (Trừ tịch, Đỗ Ngọc Toại dịch). Nhưng ở đây, Hữu Thịnh có một sáng tạo. Ông đã lấy không gian miêu tả thời gian. Câu thơ do vậy sống động hơn, hình ảnh hơn, cảm xúc thị giác nhiều hơn. Mà phần nổi của câu tho vẫn có được phần chìm của nó, ấy là cái sắc độ kiều diễm trữ tình đầy ắp phù sa nội lực.
Sự thống nhất như một mạch liền xuyên suốt nửa hạ, nửa thu tạo được tâm thế lửng lơ không chỉ ở khổ hai, mà còn khổ ba như một lời kết :
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Những thi liệu như nắng, sấm, mưa là đặc trưng của mùa hạ. Nhưng với độ giảm dần để gay gắt chuyển hoá thành dịu êm, thì đó là dấu hiệu của mùa thu. Sự phân hoá giữa hai mùa có một đường ranh giới rất mong manh. Điều duy nhất có thể xác định ở đây là nhờ vào độ nhạy cảm khó lường của giác quan mách bảo. Vì làm sao có thể đong đếm đầy voi những nhiều ít, mau thưa ? Khác cả với ca dao trong cách bấm đốt ngón tay “Một ông sao sáng, hai ông sáng sao… “. Ở đây là một thứ ước lượng trong hồn, mà hồn thơ lại chỉ như mây bay, gió thổi. Nó nặng nhẹ không cữ, không chừng mà thiên nhiên nhiều khi chỉ là một cái cớ rất bâng quơ. Nhưng trong thơ, cái cớ bâng quơ ấy lại làm nên chuyện. Ở bài thơ này, “hàng cây đứng tuổi” giống như một chứng nhân. Sự bất định đầy trải nghiệm ấy đang quan sát, lắng nghe. Nó cung đang thấu hiểu những lặng lẽ, âm thầm, khách quan chuyển động những gì bên ngoài nó, đồng hành với dòng nhựa tự nó đang hút mật nuôi cây. Chỉ có điều, hoà điệu dấy mà vẫn cứ so le: hàng cây chớm già mà mùa thu rất trẻ. Hàng cây ấy là nhà thơ đã hoá thân vào đó chăng nên giọng thơ, lời thơ nhẹ nhàng mà tình thơ đầy ắp yêu thưong, trìu mến ? Bởi cuộc sống thật đẹp sao, đẹp ở tầm vĩ mô đã đành, mà còn đẹp ở những bước đi lặng lẽ thầm thì của nó. Trong những trường họp ấy, tho cần độ rộng, nhưng cũng rất cần độ sâu. Mà ở đây là sự thẳm sâu tinh tế của hồn người, một thứ dây tơ mà theo Xuân Diệu “Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ liêu” (Chiều).
Về nghệ thuật bài thơ, cùng với sự phát sáng bất ngờ từ bao nhiêu giác quan cảm nhận, Sang thu có một cốt cách riêng : vừa cổ điển, vừa hiện đại. Tính cổ điển của bài thơ là ở độ hàm súc, gợi khơi, ở thể thơ năm chữ vốn có từ lâu trong văn học phương Đông. Chỉ cần một thứ hương cây mùa vụ, một cơn gió se se khẽ chạm vào cây đàn mẫn cảm của hồn thơ là tự nó rung lên thành nhạc thành lời. Nhưng, một mặt kế thừa thơ ca truyền thống, một mặt thi phẩm đã mở rộng đề tài, thi liệu, đem đến chất hiện thực mới cho thơ.
Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tới ngõ
Dùng dằng hoa quan họ
Nở tím bên sông Thương
(Chiều sông Thương).
Chất hiện thực trong thơ Hữu Thỉnh kết hợp làm một với chất trữ tình. Đằng sau cái cách kể tả của ông là nhịp đập của con tim lúc trầm tư, khi rộn rã. Và nhất là những ý tưởng triết luận bất ngờ với “hàng cây đứng tuổi” trước cuộc sống non tơ. Sự chắt lọc, hàm súc đến mức hổn hậu làm cho người đọc lúc đầu thì rất đỗi ngạc nhiên, còn sau đó là thán phục, đồng tình. Sang thu, trong một chừng mức nào đó đã dạt đến cái chân, cái ảo, những phẩm chất của thơ từ xưa vốn có.