Phân tích bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh

Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ nhận xét của Hoài Thanh: “Thiên nhiên trong thơ Bác thường chan chứa một niềm vui lớn”. (Cảnh đẹp thiên nhiên trong thơ Bác – Văn nghệ số 434 (1972)).   

YÊU CẦU

Phân tích bài thơ để làm sáng tỏ một đặc điểm của thơ Bác: “Thiên nhiên trong thơ Bác thường chan chứa một niềm vui lớn”. Luận điềm của bài làm là: thiên nhiên vui vì lòng nhà thơ vui. Không phải niềm vui thường mà là niềm vui lớn của người chiến sĩ cách mạng đang ung dung chèo lái con thuyền kháng chiến đi đèn thặng lợi – cũng là của một tâm hồn thi sĩ yêu đời và giao hòa tuyệt đẹp với thiên nhiên, đất trời. Thiên nhiên trong bài thơ này bao gồm bầu trời, sông nước, con thuyền và trăng – tất cả đều hài hòa vôi nhau để làm nên một bài thơ trăng lung linh, kì diệu.

BÀI LÀM

Có lẽ trăng là đối tượng muôn đời của thi sĩ. Ánh sáng lung linh, huyền diệu thanh thoát và dịu hiền của trăng rất dễ gợi cảm hứng cho thi nhân. Trăng đã từng bàng bạc tỏa sáng những trang thơ trong đôi mắt “biếc rờn” dạt dào say đắm của thi sĩ. Là một nhà thơ yêu thiến nhiên tha thiết, Bác cũng không nằm ngoài qui luật cảm hứng chung ấy của nhân loại. Bác yêu trăng, nâng niu thứ ánh sáng thanh khiết của trăng nên mỗi khi thưởng trăng, Bác thường gửi gắm vào người, bạn tri âm ấy những cảm xúc dạt dào và say đắm của tâm hồn. Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Thiên nhiên trong thơ Bác thường chan chứa một niềm vui lớn”. Bài thơ viết về trăng nổi tiếng của Bác – bài “Nguyên tiêu” cũng “chan chứa niềm vui lớn” mà Bác trân trọng gửi gắm với tất cả thương yêu.

Ở con người Bác – một con người giản dị, nhưng vẫn luôn luôn tóa sáng một nhân cách lớn lao, vĩ đại. Bác sống vì lý tưởng cao cả, buồn với nỗi đau lớn, vui với niềm vui lớn nên Bác mang cả “niềm vui lớn” ấy vào trong thơ. Chính vì thế thiên nhiên – “người tình muôn đời của thi sĩ” trong thơ Bác thường được Bác yêu thương gửi gắm nỗi niềm. Và nhất là nói với Bác, trăng vẫn là một người bạn tri âm chia sẻ vui buồn, trăng vốn chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp thơ ca Hồ Chí Minh. Trăng cũng thường mang trong mình những nỗi niềm tha thiết, mãnh liệt mà sâu lắng của Người. Bài thơ “Nguyên tiêu” tuyệt đẹp cũng nằm trong nguồn mạch ấy.

 

phan tich bai tho nguyen tieu ho chi minh

Bài thơ chữ Hán nhỏ xinh ấy đã ra đời trong 9 năm kháng chiến Chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc (cụ thể là bài thơ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948). Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, quân dân ta liên tiếp thu được những chiến thắng rực rỡ. Niềm vui thắng trận đã mang đến một niềm phấn khởi, một niềm tin mãnh liệt cho những con người kháng chiến. Trong không khí sôi động phấn chấn ấy, hồn thơ của Bác đã cất cánh, “Nguyên tiêu” đã ra đời như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Vì thế, bức tranh thiên nhiên trong bài thơ mang vẻ đẹp tươi tắn, thể hiện sâu sắc niềm vui dào dạt của tâm hồn Bác trong đêm nguyên tiêu lịch sử.

Mở đầu bài thơ là một lời thông báo, một lời nhận xét mang tính hiện thực cao độ:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Rằm tháng giêng, trăng đang vào độ tràn đầy, viên mãn nhất. Trăng ở trên đỉnh bầu trời tỏa xuống thế gian một thứ ánh sáng mênh mang, huyền diệu. Có người đã so sánh vầng trăng trong “Rằm tháng giêng” với vầng trăng trong “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế:
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên”
Một tiếng quạ kêu vang lên thê thiết giữa đêm khuya, một vầng trăng tàn, trăng úa đã gợi dậy cả một nổi buồn mênh mang, sầu não. Cũng là vầng trăng thiên nhiên ấy nhưng vầng trăng trong “Nguyên tiêu” lại là vầng trăng rực rỡ sắc xuân, tràn đầy “sung mãn”.
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Không gian bức tranh mở ra mênh mông bát ngát – một không gian ba chiều tràn đầy sức sống mùa xuân. Câu thơ chính đã đánh rơi mất một chữ xuân trong nguyên tác “Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”: sông mùa xuân, nước mùa xuân, tiếp với bầu trời mùa xuân. Ba chữ “xuân” tiếp ứng trong câu thơ như tạc như in cái xuân sắc của đất trời vào hồn người đọc. “Xuân giang”, “xuân thủy” hòa với “xuân thiên” tạo nên một mùa xuân bất tận, sức sống bừng lên toàn vũ trụ mênh mông. Giữa sông nước và bầu trời không còn giới hạn mà như hòa quyện vào nhau, chan chứa ánh sáng lấp lánh, vừa tươi đẹp vừa hư ảo như ở chốn bồng lai tiên cảnh. Độ dài rộng của sông nước, độ cao bát ngát của trời xuân như mở rộng ra mãi trong lòng người.
Động từ “tiếp” dựng dậy độ cao của bức tranh khoáng đạt, càng tạo ấn tượng về không gian vũ trụ bao la, hùng vĩ. Điệp từ “xuân” như những nốt nhấn, trong trẻo khiến sức sống bùng lên tỏa lan đất trời. Đêm trăng huyền diệu tràn ngập sức xuân tươi mới ấy tưởng như ở chốn bồng lai, nhưng thật ra đó là vẻ đẹp trần thế ngay giữa cuộc đời, nơi sông nước Việt Bắc – căn cứ địa cuộc kháng chiến chông Pháp thần thánh của dân tộc ta. Tưởng như thi nhân đang mở rộng cõi lòng để thu lấy sắc xuân của tạo vật, của đất trời trong cái nhìn hân hoan, giao cảm lạc quan với thiên nhiên. Đằng sau bức tranh xuân lộng lẫy ánh sáng, lộng lẫy vẻ đẹp sắc màu của cảnh vật hữu tình chan chứa một điệu xanh bát ngát: xanh lấp lánh “xuân giang”, xanh ngọc bích “xuân thủy”, xanh thiên thanh của “xuân thiên” (Tạ Đức Hiền), là một tâm hồn trong trẻo, cao đẹp và tràn ngập “một niềm vui lớn”. “Xuân” là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ dẹp tươi xinh nhưng “xuân” còn là vẻ đẹp, là sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong chiến tranh gian khổ vẫn bừng lên một sức sống mạnh mẽ tiềm tàng, trẻ trung không thể dập tắt được. Hai câu thơ đầu không chỉ mở ra một bức tranh xuân viên mãn với ánh trăng căng trào sức sống mà còn thể hiện tinh tế một niềm cảm xúc tự hào, một niềm vui sướng mênh mông của “một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến” (Tạ Đức Hiền). Vì thế, niềm vui cao cả lớn lao ấy của Bác như truyền vào cảnh khiến cảnh vật tươi mới, dạt dào sự sống hơn bao giờ hết.
Thơ Bác luôn vận động linh hoạt, con người luôn chủ động làm tâm điểm của bức tranh thiên nhiên. Hai câu thơ cuối đã hướng tới con người – chủ thể trữ tình với một niềm vui bát ngát:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Một chiếc thuyền bồng bềnh giữa chốn khói sóng mịt mùng, giữa nơi núi rừng sâu thẳm. Cảnh tượng nên thơ, hư hư thực thực như ở chốn thần tiên huyền ảo. Người trên thuyền như một tao nhân mặc khách đang giăng thuyền thưởng trăng với “gió trăng chứa một thuyền đầy” (Nguyễn Công Trứ). Cảnh ấy, người ấy tự lâu dã làm rung động biết bao hồn thơ. Nhưng thật bất ngờ, những người khách ở trên thuyền không phải “đàm tâm sự”, cũng không “đàm thế sự” mà là “đàm quân sự” – một công việc có liên quan đến sự sống còn của đất nước đến vận mệnh của dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh nơi sông nước kia không phải là những người ẩn sĩ, thoát tục xa lánh cuộc đời thường xuất hiện trong thơ ca:
“Thế sự thăng trầm quân mặc vấn
Yên ba thâm xử hữu ngư châu”
(Việc thế thăng trầm anh chớ hỏi
Mênh mông khói sóng chiếc thuyền câu)
(Cao Bá Quát)
hay ở câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu:
“Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai),
“Yên ba thâm xứ” một thi liệu cổ được Bác vận dụng sáng tạo khiến câu thơ phảng phất hương vị Đường thi. Nhưng ba chữ “đàm quân sự” lại khiến vần thơ mang màu sắc, mang không khí của lịch sử, thời đại vẻ đẹp hòa quyện giữa chất cổ điển và chất hiện đại đã tạo cho bức tranh vừa huyền ảo một lớp sương khói vấn vương vừa tái hiện sâu sắc một công việc,trọng đại của bàn chỉ huy cuộc kháng chiến thần thánh nơi căn cứ địa Việt Bắc. Con người ở đây không là ẩn sĩ lánh đời mà là những chiến sĩ bàn bạc việc đời, việc đất nước, nhân dân. Bác đã thay đổi hồn cốt của câu thơ, làm nổi bật lên tâm hồn chiến sĩ cao đẹp: đặt việc nước việc quân lên trên hết. Công việc trọng đại có liên quan đến vận mệnh quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa chốn khói sóng mịt mùng vừa rất nên thơ lại vừa rất độc đáo. Cảnh đẹp đầy sức quyến rũ nhưng con người không đắm chìm vào thiên nhiên, không tìm đến thiên nhiên để thoát tục tìm sự nghỉ ngơi trong tâm hồn mà con người vẫn trĩu nặng chất đời. Chỉ đến khi công việc bàn bạc quân sự đã hoàn thành, tâm hồn chiến sĩ mới dành chỗ cho tâm hồn thi sĩ phơi phới bốc men say:
“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền “
Nửa đêm, khi việc nước đã bàn xong, phương lược kháng chiến đã định, tâm hồn con người đã vơi đi lo âu thế sự thì thiên nhiên đã trở về tràn ngập tâm hồn thi nhân với vẻ đẹp đắm say hơn bao giờ hết. Trăng lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng con thuyền khiến con thuyền để “bàn quân sự” vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Một hình ảnh thơ tuyệt đẹp đã bay đến hồn thi nhân. Khi công việc đã hoàn thành, tâm hồn Bác mở rộng đón thứ ánh sáng cao khiết của ánh trăng, no nê, thưởng ngoạn chất xuân sung mãn. Vì thế, thiên nhiên trong bài thơ như hân hoan, trong niềm sảng khoái trong niềm vui thanh thản của người lãnh tụ đã tìm được phương lược kháng chiến để cứu nước. Câu thơ phảng phất hương vị Đường thi như trong câu thơ của Trương Kế:
“Cổ Tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền “
(Phong kiều dạ bạc)
Nếu câu thơ của Trương Kế ghi lại thời điểm đêm khuya tĩnh vắng, tâm trạng cô quạnh đơn chiếc của người lữ thứ thì trong “Nguyên tiêu”, cũng là nửa đêm nhưng cảnh không tĩnh vắng mà ấm nóng hoạt động của con người, mà sáng bừng ánh sắc của trăng rằm rực rỡ. Trong thơ Bác, trăng là thiên nhiên tươi đẹp, thanh xuân; trăng là người bạn tri âm tri kỉ và trăng cũng là biểu tượng cao đẹp, sáng láng của tự do. Ta đã từng bắt gặp tâm hồn người tù Hồ Chí Minh phá tan song sắt nhà lao Tưởng Giới Thạch để bay lên giữa bát ngát ánh trăng;
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
thì giờ đây, giữa Việt Bắc “thủ đô gió ngàn”, tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát tự do ấy càng bừng lên mãnh liệt. Trăng chính là hình ảnh tự do. Không còn tầm tôi một, cánh cửa nhà tù, chỉ có con người và ánh trăng làm trung tâm bức tranh phong cảnh. Niềm vui chan chưa trong hình ảnh thiên nhiên tự do, khoáng đạt gieo vào hồn người một cảm xúc trong trẻo đầy chất thơ.
Thơ Bác thường vận động hướng tới ánh sáng như niềm tin mãnh liệt của Bác vào tương lai huy hoàng tươi sáng của ngày mai. Bài thơ kết thúc trong dòng suối trăng lấp lánh rực rỡ, kết trong hình ảnh một con thuyền trăng chan hòa. “Ý tại ngôn ngoại”, lời thơ đóng lại nhưng ý thơ mở ra mênh mang, niềm vui như tỏa lan vương vấn mãi trong hồn người đọc. Niềm vui có được sau khi việc quân việc nước đã bàn xong, niềm vui có được khi thi nhân say đắm ngắm trăng vàng và tin vào tương lai tươi sáng. Niềm vui ấy củng cố cho con người niềm tin vào sự thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến vĩ đại. Câu thơ tràn đầy niềm lạc quan cách mạng của nhà thơ – vị lãnh tụ tài ba. Và vì thế con thuyền bát ngát trăng cũng như bát ngát niềm vui cao đẹp tin tưởng vào bình minh sáng rực của dân tộc. Chất lãng mạn cách mạng vút lên từ hiện thực kháng chiến, lâng lâng một niềm vui sảng khoái. Người chiến sĩ vụt biến thành thi sĩ, dể rồi say sưa trước xuân viên mãn, nhưng vẫn hết lòng với cuộc kháng chiến giành độc lập tự do, giữ mãi đêm trăng rằm mộng mị trên quê hương yên bình. Con thuyền quân sự – con thuyền trăng – con thuyền kháng chiến lướt trên dòng sông trong nguồn sáng rực rỡ là dự báo cuộc kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi, con thuyền cách mạng sẽ cập bến vinh quang.
“Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng đẹp. Bài thơ man mác phong vị Đường thi nhưng cảnh không buồn rầu như trong thơ cổ mà phơi phới một niềm vui lớn của một tâm hồn cao cả. Sức xưa như tràn ra trong hình ảnh thơ, ánh trăng như lai láng lan cả vào hồn bạn đọc đã thế hiện một tình yêu thiên nhiên tha thiết của một tâm hồn, dù trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan tin tưởng vào ngày mai. Cảnh vật trong bài thơ thanh nhẹ nhưng lấp lánh niềm vui lớn. Dù thiên nhiên có phảng phất phong vị cổ điển vẫn phơi phới một niềm vui hiện đại, vẫn trĩu nặng chất đời. Trăng trong thơ Bác và trăng của hàng nghìn năm trước vẫn là vầng trăng ấy. Nhưng trăng xưa là trăng buồn, trăng úa, thì trăng trong “Rằm tháng giêng” lại là vầng trăng vui dạt dào sức sống. Vậy thì sự buồn vui đâu phải tự vầng trăng mà nỗi niềm ấy xuất phát tự lòng người. Trăng vui trăng đẹp, trăng trong trăng sáng thanh cao ấy là vì lòng người cũng vui, cũng đẹp, cũng trong sáng như trăng. Qua trăng trong bài thơ Bác, trăng trong “Nguyên tiêu” ta hiểu được vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo cao đẹp của Bác chính là vì vậy.
“Thơ là tiếng nói của trái tim đến mỗi trái tim”. Niềm vui lớn trong thơ Bác đã tìm được sự đồng diệu trong lòng bao thế hệ. Qua thiên nhiên trong thơ Bác nói chung và thiên nhiên trong “Nguyên tiêu” nói riêng ta hiểu được nhân cách cao cả của người. Cuộc đời cứ trôi đi, những tác phẩm nghệ thuật đích thực, những tâm hồn cao đẹp càng ngời sáng lấp lánh với muôn đời như “cây đời mãi mãi xanh tươi”. “Nguyên tiêu” với bức tranh thiên nhiên “chan chứa niềm vui lớn” sẽ mãi là một bông hoa xuân thắm sắc nhịp nhàng sự sống, nắng ấm tình đời như mới hôm qua.

Thảo luận cho bài: Phân tích bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh