Thư dụ Vương Thông lần nữa của Nguyễn Trãi
Thư dụ Vương Thông lần nữa là thư số 35, một trong những bức thư gửi cho Vương Thông. Bấy giờ thành Đông Quan (Hà Nội nay) bị quân ta vây hãm, quân địch ở trong thành đang khốn đốn. Bức thư này viết vào khoảng tháng 2 – 1427 thì đến tháng 10 năm ấy, sau khi Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông không đợi lệnh vua Minh đã “tự ý giảng hoà” với quân Lam Sơn rồi rút quân về nước.
Mời các em học sinh tham khảo thêm bài:
Soạn bài Nỗi thương mình ( truyện Kiều )
I – GỢI DẪN
- Thể loại
Trong thời trung đại, thư ban đầu là tên chung của loại thư tín viết để trao đổi thông tin công việc hoặc tình cảm giữa người với người, hoặc gửi cho vua quan, bạn bè, người thân. Về sau, thư gửi vua được gọi là biểu, tấu, thư chỉ là hình thức thông tin giữa những người ngang hàng. Trong Quân trung từ mệnh tập, thư là hình thức công văn bàn việc nước, việc chiến, việc hoà ; nên mang đậm nét tính chính luận.
- Tác phẩm
Trong sự nghiệp phò tá Lê Lợi đánh quân Minh, Nguyễn Trãi có nhiệm vụ soạn thảo các thư từ gửi cho các tướng nhà Minh, nhân danh Lê Lợi để khuyên dụ. Nguyễn Trãi đã thực hiện chiến thuật “tâm công” hết sức hiệu quả.
Thư dụ Vương Thông lần nữa là thư số 35, một trong những bức thư gửi cho Vương Thông. Bấy giờ thành Đông Quan (Hà Nội nay) bị quân ta vây hãm, quân địch ở trong thành đang khốn đốn. Bức thư này viết vào khoảng tháng 2 – 1427 thì đến tháng 10 năm ấy, sau khi Liễu Thăng bị giết ở gò Mã Yên, Vương Thông không đợi lệnh vua Minh đã “tự ý giảng hoà” với quân Lam Sơn rồi rút quân về nước.
Bức thư có bố cục 3 đoạn :
- Đoạn 1 (từ đầu cho đến Sao đủ để cùng nói việc binh được ?) : Nêu lên nguyên lí của người dùng binh là phải hiểu biết thời thế.
- Đoạn 2 (từ Trước đây các ông trong lòng gian dối cho đến bại vong đó là sáu !) : Phân tích thời và thế của đối phương ở thành Đông Quan.
- Đoạn 3 (phần còn lại) : Khuyên hàng, hứa hẹn những điều tốt đẹp, thách đấu và sỉ nhục tướng giặc.
II – KIẾN THỨC CƠ BẢN
Với nghệ thuật nghị luận sắc sảo và đanh thép, Thư dụ Vương Thông lần nữa của Nguyễn Trãi cho thấy ý chí quyết thắng và tinh thần yêu chuộng hoà bình của quân và dân ta.
Trước hết, vẻ đẹp chính luận của tác phẩm thể hiện ở lôgíc giữa các đoạn, mạch lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Từ việc nêu ra nguyên lí người dùng binh không thể không hiểu biết thời thế, rồi phân tích cặn kẽ cho đối phương thấy họ đang ở vào thời thế chỉ chuốc lấy bại vong, tiến đến đưa ra nội dung “dụ” phải đầu hàng và rút quân về nước, và cuối cùng tác giả chốt lại bằng những lời vừa là thách đấu đồng thời cũng là lời sỉ nhục, “khích tướng” : Nếu không thì ra giao chiến phân tài hơn kém, không nên hèn nhát như thế.
Đưa ra tư tưởng thời thế như một nguyên lí căn bản trong việc dùng binh, tác giả đã mở đầu bằng chân lí sáng rõ, phàm là người làm tướng đều thấu hiểu, để từ đó sẽ đi đến phân tích thời thế cụ thể của đối phương nhằm mục đích thuyết phục, dụ hàng ; đồng thời khẳng định kẻ địch không những không hiểu thời thế mà còn dối trá, che đậy nguy cơ thảm bại. Đây là đoạn văn có vai trò nêu chủ đề, mở ra hướng lập luận cho toàn bài.
Thời và thế của quân Minh đã được tác giả phân tích trong đoạn 2 của bức thư :
– Thế của quân Minh ở Trung Quốc : Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy một năm tất sẽ theo nhau mà chết, ấy là mệnh trời… ; Phía Bắc có giặc Thiên Nguyên, trong nước có nội loạn ở Tầm Châu.
– Thế của quân Minh ở Đông Quan : kế cùng lực kiệt, lính tráng mỏi mệt, trong không lương thảo, ngoài không viện binh,…
– Sáu cớ bại vong tất yếu, không thể bác bỏ.
Mặc dù ở tư thế của người nắm phần chủ động, hơn về sức mạnh quân sự cũng như thời thế, song thái độ của tác giả hết sức linh hoạt : đối với bọn Vương Chính, Mã Kì tàn ác, ngoan cố thì sỉ mắng, cương quyết tiêu diệt ; đối với Vương Thông, Sơn Thọ và các tướng khác thì phân tích thời thế, cương nhu linh hoạt, chủ yếu dụ hàng. Cuối cùng, vừa khuyên nhủ, hứa hẹn lại vừa sỉ mắng, “khích tướng”, thách đánh để chứng tỏ sức mạnh làm chủ tình thế của quân ta. Đặt vào hoàn cảnh sáng tác cụ thể để thấy mục đích viết thư của Nguyễn Trãi là dụ giặc ra hàng và rút quân về nước. Mục đích này được nói rõ trong các câu : “Các ông là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời thế, vậy nên chém đầu Phương Chính, Mã Kì đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy trong thành sẽ khỏi nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hoà hiếu lại thông, can qua xếp bỏ”.
Bức thư thể hiện niềm tin tất thắng và tinh thần yêu chuộng hoà bình của tác giả, cũng là của nhân dân ta : Chỉ rõ sự thất bại của địch, khẳng định thế tất thắng của ta với sáu cớ bại vong của địch ; Khuyên dụ đầu hàng, mở ra đường thoái lui cho đối phương : “sửa sang cầu cống, mua sắm tàu thuyền, thuỷ lục hai đường, tuỳ theo ý muốn ; quân ra khỏi cõi, muôn phần bảo đảm được yên ổn” ; Bộc lộ quan điểm hoà hữu, bang giao thân thiện, lâu dài : “nước ta lại phụng cống xưng thần, theo như lệ trước”. Lấy sự phân tích xác thực thời thế để thuyết phục ; hơn thế, lấy chính tinh thần nhân đạo, yêu chuộng hoà bình để mà thuyết phục ; sức mạnh của chiến lược, sách lược “đánh vào lòng người” thể hiện ở bức thư dụ Vương Thông là sản phẩm của một trí tuệ và đồng thời còn là của một tấm lòng cao cả, chính nghĩa.