Soạn bài: Thiên Trường Vãn Vọng

Thiên Trường Vãn Vọng của Trần Nhân Tông

Bài thơ thiên trường vãn vọng Ít ai có thể nghĩ được rằng, một vị vua ở tận nơi lầu son gác tía, lại gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã như vậy. Vì thế, càng đọc kĩ bài thơ, ta càng hiểu được cái tình quê, tình người lai láng đậm đà trong tâm hồn một bậc vĩ nhân, càng thêm quý trọng và mến phục ông.

I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Thể thơ

Đây có thể coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, từ nội dung cho đến hình thức thể hiện.

2. Tác giả

Trần Nhân Tông từng là một ông vua yêu nước, giỏi việc cầm quân song cũng không kém phần tài hoa, lịch lãm. Khi làm vua, ông không quản nguy hiểm, trực tiếp cùng Thái thượng hoàng xông ra trận tiền chỉ huy quân sĩ chiến đấu, đánh tan đạo quân Nguyên Mông mạnh và hung hăng khét tiếng lúc bấy giờ. Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được làm khi ông về thăm quê cũ.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

  1. Về thể thơ, bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra giống với bài thơ nào? Nêu đặc điểm của thể thơ đó thể hiện trong bài này.

Gợi ý: Kiểm tra về số câu, số chữ xem bài thơ này giống bài thơ nào trong hai bài thơ luật Đường đã học?
Chú ý từ cuối của các câu 1, 2, 4 để chỉ ra cách hiệp vần của bài thơ.

  1. Cụm từ bán vô bán hữu (nửa như có nửa như không) có nghĩa là phong cảnh mờ ảo; vừa như có lại như
    không; vừa thực lại vừa hư. Quang cảnh gợi lên ở đây là làng xóm đang mờ trong sương khói. Cảnh có nét thực nhưng lại có nét ảo. Chính điều này tạo nên sự mơ màng, nên thơ rất độc đáo của câu thơ.
  2. Trong bài thơ, cảnh được miêu tả vào lúc chiều tà (lúc hoàng hôn). Trong khung cảnh có thể nghe thấy tiếng sáo của trẻ chăn trâu đang dẫn những chú trâu no mẫm về nhà, có những cánh cò trắng đang từ từ đáp xuống cánh đồng phía trước, ở phía xa kia, các thôn xóm đã chìm dần trong sương khói như mơ như thực. Một khung cảnh làng quê thật thanh bình và êm ả, nên thơ.
  3. Qua bức tranh được miêu tả, có thể nhận thấy cảnh tượng nhìn từ phủ Thiên Trường thật nên thơ. Xóm thôn mờ mờ sương khói hoà trong tiếng sáo của trẻ chăn trâu văng vẳng cùng từng đôi cò trắng đang xoè cánh đậu xuống đồng. Đứng trước cảnh thiên nhiên ấy, tác giả như chìm đắm say xưa trong cảnh vật. Ngắm nhìn, thưởng thức nét đẹp của xóm thôn mà vui mừng với cuộc sống không vượng bận binh đao.

5.* Tác giả của bài thơ là một ông vua có tâm hồn thi sĩ. Đọc bài thơ, ta thấy hoàn toàn không có sự ngăn cách nào giữa một người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia với một người nông dân thuần phác (cảnh được nhìn và miêu tả ở những nét gần gũi và dân dã nhất). Điều đó cho thấy, nhà vua rất gần dân chúng, rất yêu dân, yêu chuộng sự thanh bình. Phải chăng vì các vị vua Trần rất thân dân, yêu dân như con mà mỗi khi đứng trước hoạ xâm lăng (nhất là trong ba lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta) nhà Trần đều lãnh đạo nhân dân chống xâm lược thành công.

III. RÈN LUYỆNKĨ NĂNG

  1. Cách đọc

Bài thơ thiên về tả cảnh, qua đó, những tình cảm của tác giả đối với quê hương được bộc lộ kín đáo (bút pháp “tả cảnh ngụ tình”). Vì vậy khi đọc không lên giọng, trái lại cần đọc nhẹ nhàng, tình cảm, hạn chế sự nhấn mạnh vào những chỗ không cần thiết, không thể hiện đúng tinh thần của văn bản.

  1. Khi viết đoạn văn, chú ý miêu tả những chi tiết sau:

– Mặt trời lặn, không gian mờ mờ sương và khói (của những nhà dân đang thổi cơm chiều).

– Cảnh từng đôi cò trắng liệng xuống đồng.

– Cảnh những xóm thôn xa xa mờ ảo.

– Chú ý không miêu tả những con trâu vì lúc này trâu đã về hết, chỉ nghe tiếng sáo của mục đồng vẳng lại mà thôi.

Cần miêu tả để làm nổi bật được cảnh đồng quê. Có thể giả sử mình đang đứng trên lầu cao của phủ Thiên Trường để nhìn cảnh vật.

Thảo luận cho bài: Soạn bài: Thiên Trường Vãn Vọng