Soạn bài: Thêm trạng ngữ cho câu

Thêm trạng ngữ cho câu (tiếp theo)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Đặc điểm của trạng ngữ

a) Xác định trạng ngữ trong các câu dưới đây

Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. […]

Tre với người như thế đã mấy nghìn năm. Một thế kỉ “văn minh”, “khai hoá” của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người. Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.

(Thép Mới)

Gợi ý: Phân tích thành phần cấu tạo của từng câu để nhận diện trạng ngữ.

b) Nhận xét về ý nghĩa của các trạng ngữ vừa tìm được trong các câu trên.

Gợi ý: Trạng ngữ là thành phần phụ của câu, có tác dụng mở rộng ý nghĩa cho câu.

Các trạng ngữ ý nghĩa
Dưới bóng tre xanh làm rõ, xác định về mặt không gian (nơi chốn) cho điều được nói đến trong câu.
đã từ lâu đời bổ sung thêm thành phần ý nghĩa xác định về mặt thời gian cho câu
đời đời, kiếp kiếp
từ nghìn đời nay

c) Các trạng ngữ trên nằm ở vị trí nào trong câu?

Gợi ý:

– Trạng ngữ có thể nằm ở đầu câu: Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang.

– Trạng ngữ nằm ở cuối câu: Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp.

– Trạng ngữ có thể nằm ở giữa câu: Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.

II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

1. Trong số các câu sau đây, ở câu nào cụm từ mùa xuân làm trạng ngữ? Ở những câu còn lại, cụm từ mùa xuân đóng vai trò gì?

a) Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh […].

(Vũ Bằng)

b) Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít.

(Vũ Tú Nam)

c) Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân.

(Vũ Bằng)

d) Mùa xuân! Mỗi khi hoạ mi tung ra những tiếng hót vang lừng, mọi vật như có sự đổi thay kì diệu.

(Võ Quảng)

Gợi ý: Phân tích thành phần cấu tạo của từng câu để nhận diện trạng ngữ (nếu có) và xác định vai trò của cụm từ mùa xuân trong câu.

– a)

Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội- /
C
là mùa xuân có mưa riêu riêu,…  có tiếng nhạn … đêm xanh.
V

– b)

Mùa xuân, cây gạo / gọi đến bao nhiêu là chim ríu rít.
Tr. ngữ C V

– c)

Tự nhiên như thế: ai / cũng chuộng mùa xuân.
C V

– d)

Mùa xuân!
Câu đặc biệt
Soạn bài: Thêm trạng ngữ cho câu

Soạn bài: Thêm trạng ngữ cho câu

2. Tìm trạng ngữ trong các câu dưới đây:

a) Cơn gió mùa hạ lướt qua vừng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đông lại, bông lúa ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời.

(Thạch Lam)

b) Chúng ta có thể khẳng định rằng: cấu tạo của Tiếng Việt, với khả năng thích ứng với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây, là một chứng cớ khá rõ về sức sống của nó.

(Đặng Thai Mai)

Gợi ý: Xem bảng dưới

3. Phân loại các trạng ngữ vừa tìm được dựa theo ý nghĩa mà nó bổ sung cho câu.

Gợi ý: Phân tích thành phần cấu tạo của từng câu để xác định thành phần trạng ngữ. Hãy quan sát bảng sau:

Trạng ngữ chỉ thời gian khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi
Trạng ngữ chỉ không gian (nơi chốn) trong cái vỏ xanh kia; dưới ánh nắng
Trạng ngữ chỉ nguyên nhân vì cái chất quý trong sạch của Trời
Trạng ngữ chỉ cách thức như báo trước mùa về của một thức quà thanh nhã và tinh khiết
Trạng ngữ chỉ phương tiện với khả năng thích hợp với hoàn cảnh lịch sử như chúng ta vừa nói trên đây

Các loại trạng ngữ trên đây cũng là các loại trạng ngữ mà chúng ta thường sử dụng khi nói, viết.

Thảo luận cho bài: Soạn bài: Thêm trạng ngữ cho câu