Soạn bài Rừng Xà Nu
Mời các bạn tham khảo thêm:
Soạn bài Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài (mẫu 1)
I. GIỚI THIỆU CHUNG:
– Nguyễn Trung Thành là một bút danh khác của nhà văn Nguyên Ngọc. Ông vốn là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp với tiểu thuyết nổi tiếng “Đất nước đứng lên”, một cuốn tiểu thuyết viết về cuộc chiến đấu bất khuất của các dân tộc Tây Nguyên.
– Sau này, ông vẫn tiếp tục viết về miền đất ấy. “Rừng xà nu” là một tác phẩm tiêu biểu. Truyện được viết vào mùa hè năm 1965, khi đế quốc Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam nước ta.
Có thể nói, Tây Nguyên chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của nhà văn.
II. NỘI DUNG CHÍNH:
“Rừng xà nu” là câu chuyện về cuộc “đồng khởi” của làng Xô man ở Tây Nguyên, được nhà văn Nguyên Ngọc mô tả bằng hình tượng thiên nhiên và hình tượng con người.
1. Hình tượng cây xà nu – rừng xà nu: Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình tượng cây xà nu- rừng xà nu nổi bật, xuyên suốt tác phẩm, vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng.
– Mở đầu là hình ảnh cánh rừng xà nu “đến hút tận mắt….chạy đến chân trời”.
– Kết thúc tác phẩm cũng bằng hình ảnh “rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời” -> gây ấn tượng nổi bật, đọng lại dư âm trong tâm trí người đọc khi truyện đã khép lại.
a) Ý nghĩa thực : Cây xà nu được miêu tả cụ thể :
– Có vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt ( Ham ánh nắng mặt trời, thân mọc thẳng, nhọn như một mũi tên…bạt ngàn khắp núi rừng, nhựa…thơm ngào ngạt).
– Có khả năng chịu đựng mọi thử thách, không gì tiêu diệt nổi ( một cây ngã gục, bốn năm cây con mọc lên, đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành…, ưỡn tấm ngực che chở cho làng…)
– Gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng ngày ( lửa xà nu trong bếp mỗi nhà, trẻ con mặt lem luốc khói xà nu, đuốc xà nu theo con người đấu tranh chống giặc…) ; thấm vào nếp nghĩ và cảm xúc “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta” (lời cụ Mết) ; là lá chắn để bảo vệ làng Xô man trước đạn pháo giặc.
b) Ý nghĩa tượng trưng :
Cây xà nu được miêu tả như một nhân vật có linh hồn, có tinh cách, đươc khắc họa trong sự hòa nhập, tương ứng với những phẩm chất của dân làng Xô man :
– Cây xà nu, rừng xà nu bị tàn phá khốc liệt, tượng trưng cho nhân dân làng Xô Man bị khủng bố tàn bạo, chịu nhiều đau thương uất hận.
– Cây xà nu ham ánh nắng và khí trời, tượng trưng cho dân Xô Man yêu tự do, yêu cuộc sống.
– Cây xà nu có khả năng chịu đựng mọi thử thách, không gì tiêu diệt nổi, tượng trưng cho dân Xô Man có sức chịu đựng ghê gớm trước sự khủng bố của kẻ thù.
– Cây xà nu sinh sổi nảy nở rất khỏe, cạnh những cây ngã gục có những cây con mọc lên, mạnh mẽ không gì cản nổi, tượng trưng cho hình ảnh dân Xô Man bám đất, giữ làng, theo cách mạng chống giặc qua nhiều thế hệ …
-> Cây xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên. Đó cũng là lý do vì sao tác giả đặt tên cho truyện ngắn này là “Rừng xà nu”.
2. Hình tượng nhân dân làng Xô Man : Được miêu tả tương ứng với rừng cây xà nu qua nhiều thế hệ, thể hiện sự nối tiếp và trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
a) Cụ Mết: Là thế hệ đi trước, tham gia chống giặc từ thời chống Pháp
– Là cây xà nu đại thụ của làng Xô man (được miêu tả qua dáng vẻ, cách nói, bản lĩnh, tấm lòng yêu thương đối với dân làng, đối với quê hương…)
– > Hình ảnh biểu tượng biểu tượng cho sức mạnh tinh thần có tính truyền thống, cội nguồn của các dân tộc Tây Nguyên.
– Là linh hồn của cuộc chiến đấu, là gạch nối giữa Đảng và dân làng đến với Cách mạng ; vững vàng, gan góc trong đấu tranh ; yêu thương chăm sóc thế hệ tương lai ; yêu qêu hương, tự hào về quê hương của mình…)
-> Cụ Mết tiêu biểu cho thế hệ già làng trong cuộc đấu tranh của dân tộc.
b) Nhân vật Tnú: Được tác giả tập trung khắc họa tính cách lẫn số phận, mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên.
– Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với Cách mạng (giặc khủng bố dã man vẫn cùng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ, gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, bị tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng “Cộng sản ở đây…” ). Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xô man bình tĩnh vững vàng chống Mỹ Diệm.
– Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ, biết là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnú nhớ làng, nhớ âm thanh và nhịp điệu sinh hoạt của làng ; khi về, anh nhớ tất cả mọi người…).
– Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho quê hương và gia đình (Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…).
– Có tinh thần kỷ luật cao : Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui định, ở lại một đêm rồi ra đi…
* Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa: Cầm phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai; với hai bàn tay không xông ra cứu vợ con – Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành muời ngọn đuốc trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ quê hương…).
=> Tnú là một nhân vật độc đáo, giàu chất sử thi, tập trung những tác phẩm chất cao đẹp tiêu biểu cho nhân dân anh hùng của một dân tộc anh hùng.
b) Thế hệ kế tiếp : Mai, Dít, bé Heng…là các thế hệ nhân dân tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng lớn mạnh. (sự dũng cảm của Mai, sự bình tĩnh, vững vàng của Dít và sự lạc quan trong sáng của bé Heng).
-> Tạo nên một hệ thống nhân vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ.
III. NGHỆ THUẬT: Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng. Chất sử thi toát lên qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm:
– Đề tài có ý nghĩa lịch sử : sự vùng dậy của dân làng Xô man chống Mỹ Diệm.
– Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng. Rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc ( Cả rừng …ào ào rung động, lửa cháy khắp rừng).
– Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên vừa mang phẩm chất của anh hùng thời đại.
– Kết cấu vòng tròn : Mở đầu, kết thúc là hình ảnh của rừng xà nu, cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách.
– Cách trần thuật : Chuyện về sự nổi dậy của dân làng và cuộc đời Tnú được kể lại trong một đêm anh về thăm làng, qua lời cụ Mết, bên bếp lửa bập bùng – Giọng kể trang trọng như truyền cho thế hệ con cháu những trang sử bi thương và anh hùng của cộng đồng. Chuyện về thời hiện tại được kể bằng giọng điệu và ngôn ngữ sử thi
IV. KẾT LUẬN:
– Tác phẩm đã khắc họa được tập thể nhân dân anh hùng, gắn bó với nhau trong thời đại anh hùng, vừa mang dấu ấn của thời đại chống Mỹ, vừa mang phong cách của núi rừng Tây Nguyên.