Đề bài: Có người cho rằng: với bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương, Huy Cận đã khắc họa lại lần thứ hai gương mặt các pho tượng bằng ngôn ngữ thơ ca đặc sắc. Hãy phân tích nghệ thuật miêu tả các pho tượng trong bài thơ để chứng minh điều đó.
Các vị La Hán chùa Tây Phương (được sáng tác cuối năm 1960) là bài thơ vào loại trội nhất của Huy Cận từ sau Cách mạng tháng Tám. Phần đặc sắc hơn cả trong bài thơ này là tám khổ thơ đầu, khắc họa các hình ảnh các pho tượng La Hán ở chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây). Có người xem đoạn thơ này là những bức “điêu khắc bằng lời” làm sống dậy các pho tượng gỗ rất nổi tiếng của chùa Tây Phương. Hơn nữa, hình tượng thơ ở đây còn chứa đựng những suy ngẫm triết lí về nhân sinh và một thời đại lịch sử mà xã hội “quằn quại, đau khổ trong những biến động và bế tắc không tìm được lối ra”, như Lời dẫn của chính tác giả ở đầu bài thơ đã viết.
Đoạn thơ này khai triển theo hướng đi từ những ấn tượng chung đến sự miêu tả khắc họa ba pho tượng cụ thể và cuối cùng tả bao quát cả quần thể các bức tượng La Hán.
Thể thơ đầu diễn tả ấn tượng chung: nỗi vương vấn, băn khoăn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ sau khi thăm chùa Tây Phương và các pho tượng La Hán. Đến nơi cửa Phật mà lòng chẳng hề thấy thanh thản siêu thoát, bởi chính những tượng Phật ờ đây lại trĩu nặng những nét đau thương rất người, làm dội lên một nỗi băn khoăn, một câu hỏi:
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Như để làm rõ và sâu sắc thêm cho cảm tượng chung ở trên, trong ba khổ thơ tiếp theo Huy Cận đi vào khắc họa ba pho tượng cụ thể với những hình hài và tư thế rất khác nhau nhưng đều cùng thể hiện những nỗi đau khổ và bế tắc của nhân thế.
Pho tượng thứ nhất:
Đây vị xương- trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sậu vòm mắt
Từ bấy ngồi y cho đến nay.
Bằng việc khắc họa sự gầy gò, trần trụi của thân hình và tư thế bất động của ngoại hình, tác giả đã làm nổi bật lên sức mạnh của tư tưởng, tâm linh: nhà tu hành mãi sống với những ý tưởng và suy tư của mình đến khô héo cả hình hài! Những ý tưởng nung nấu trong tâm trí có thể thiêu đốt cả thể xác con người thì đó phải là những ý tưởng mạnh mẽ và sâu sắc. Nhà thơ đã làm nổi rõ được tài năng của nhà nghệ sĩ điêu khắc: đùng cái tĩnh mà nói được cái động, bằng sự khắc họa ngoại hình mà diễn tả được sức sống nội tâm nhân vật.
Ở pho tượng thứ hai, Huy Cận lại cảm nhận được một nét đặc sắc khác của tài năng các nghệ nhân tạc tượng: khắc họa những chuyển động mạnh mẽ của thân thể để diễn tả những vận động sôi sục dữ dội trong nội tâm. Câu thơ với hàng loạt động từ và trạng từ diễn tả những động tác và trạng thái rất căng thẳng, mạnh mẽ, đặc biệt là trên khuôn mặt của pho tượng: mắt giương, mày nhíu xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, gân vặn, mạch máu sôi. Đó đâu là những chuyển động của thân thể, của đường gân thớ thịt mà chính là bộc lộ sự dồn nén sôi sục của tâm linh tưởng như muôn phá tung những giới hạn thân xác chứa đựng nó; một sự trăn trở dữ dội tìm đường giải thoát nhưng cũng thật là bất lực.
Ở pho tượng thứ ba, nhà thơ chú ý đến một tư thế và một hình hài khác lạ:
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non.
Trái với sự trăn trở dữ dội ở bức tượng trên, ở đây con người dường như không còn một vận động nào nữa. Trong cái dáng dấp lạ lùng này, con người dường như dã hoàn toàn xa lánh với ngoại giới, phải chăng đã đạt đến sự tịch diệt, vô cảm? Nhưng nghệ nhân tạc tượng đà đặc biệt diễn tả một đôi tai khác thường: “rộng dài ngang gối”. Đôi tay có tướng mạo của Phật ấy, với Huy Cận, chính là để nhà tu hành “Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn”, để đón nhận và cảm thông với ngàn vạn nỗi đau khổ của chúng sinh trong cõi trần gian bể khổ này như nhà Phật từng quan niệm.
Sau khi đã đặc tả ba pho tượng tiêu biểu, tác giả tả bao quát cả nhóm tượng đồng thời thể hiện những liên tưởng và suy ngắm của mình về con người và nhân thế được gợi ra từ hình ảnh các tượng La Hán này. Đây không phải là mộ vài cá nhân đau khổ mà là hình của cả một chúng sinh đau khổ, là cả một “nhân loại” của một quá khứ bế tắc quằn quại đã hiện hình về từ vực thẳm đau thương, tụ họp lại dưới mái chùa này:
“Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời”
Bằng cảm xúc mạnh mẽ và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã biến những pho tượng gỗ bất động kia thành những sinh thể hiện ra với những quằn quại, trăn trờ và tâm trạng căng thẳng sục sôi, một ‘‘Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã” mà các pho tượng gỗ cũng “đổ mồ hôi”, Tác giã nhìn ra cuộc tụ họp những khổ đau này là ở thời điểm cao độ của sự vật vã căng thẳng, khi mà “Bấy nhiêu quằn quại run lần chót” trước khi các nhà tu hành bước được vào cối tịch diệt của Phật.
Cũng từ những pho tượng này, Huy Cận cảm nhận được nỗi khát khao tìm lối ra và sự bế tắc vô phương giải thoát của cha ông ta trong một thời quá khứ (mà ở đoạn tiếp theo của bài thơ, tác giả sẽ chỉ rõ đổ là thời đại của Nguyễn Du):
Mặt cúi, mặt nghiêng mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Sự suy tưởng của tác giả mặc dù có định hướng rõ ràng về một thời đại lịch sử, nhưng nó có cơ sở trên sự quan sát và rung cảm trực tiếp từ các pho tượng; không những không thoát li khỏi các hình tượng điêu khắc mà còn truyền vào các hình tượng ấy một ý nghĩa triết lí về nhân sinh và lịch sử.
Thành công của Huy Cận trong bài thơ pác vị La Hán chùa Tây Phương, đặc biệt là ở tám khổ đầu, trước hết là sự quan sát tinh tế và khả năng miêu tả giàu sức tạo hình với bút pháp già dặn, vừa sinh động vừa cô đúc, nhiều sức gợi. Nhưng ở chiều sâu của nó, bài thơ còn là sự tiếp nối và giải tỏa cho những nỗi đau đời, những nỗi sầu nhân thế của tác giả Lửa thiêng, một hồn thơ như chính nhà thơ tự thay, luôn luôn “tủi nắng sầu mưa – Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi” (Mai sau). Vì thế sự cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ về các pho tượng La Hán chùa Tây Phương còn là một sự đồng cảm thấm thía; và phải chăng có thể nói Huy Cận đã thấu hiểu được nỗi lòng và ý tưởng của các nghệ nhân tài hoa xưa đã gửi vào các pho tượng này những tác phẩm vẫn được xem như là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc gỗ Việt Nam.
(Theo Đề thi tuyển sinh và hướng dẫn làm bài thi – Nhà xuất bản Giáo dục, 1994)