Hình ảnh thiên nhiên trong các bài thơ Tràng giang (Huy Cận), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Giạ (Hàn Mặc Tử). Phân tích những nét chung của thiên nhiên trong ba bài thơ và chỉ ra đặc điểm riêng của thiên nhiên trong từng bài thơ.
Yêu cầu
Nêu đúng những nét chung và chỉ ra đúng đặc điểm riêng của thiên nhiên trong ba bài thơ qua việc phân tích những dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc trong các tác phẩm.
Bài làm
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca. Các thi sĩ đến với thiên nhiên bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy mến yêu. Không ai quên thế giới Bồng Lai tiên cảnh trong thơ Lý Bạch, núi rừng hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi, làng quê mộc mạc đơn sơ trong thơ Nguyễn Khuyến. Và cũng không ai quên trong phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) từng có một tiếng reo “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu, một tình cảm mênh mang với “Tràng giang” của Huy Cận và một nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi với “Đây thôn Vĩ Giạ” của Hàn Mặc Tử.
Thiên nhiên chớm vào mùa thu trên đất Bắc trong “Đây mùa thu tới” thật đẹp mà cũng thật buồn – một vẻ đẹp, một nét buồn rất mới, rất khác so với thơ ca trung đại.
Nếu như cảm quan nghệ thuật của thi ca trung đại là: lấy thiên nhiên làm chuẩn mực vẻ đẹp cho con người – như Nguyễn Du đã từng tả Thúy Vân: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” (Truyện Kiều) – thì với Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” – con người là vẻ đẹp chuẩn mực cho thiên nhiên:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.”
Chưa ai có một cách so sánh lạ như Xuân Diệu. Cây liễu đẹp như người thiếu nữ đứng xõa tóc “chịu tang”. Mỗi sợi tóc là một sợi buồn, mỗi nhành liễu là một sợi tóc. Từ cổ chí kim, không có nỗi buồn nào thấm thía đau đớn bằng nỗi buồn chịu tang. Bao nhiêu nước mắt rơi xuống mà nỗi buồn chẳng vơi. Rặng liễu với những sợi tơ liễu được kết bằng những lá liễu dài gối lên nhau “hàng hàng” rủ xuống như “lệ” giăng mắc đầy một khoảng trời làm nỗi buồn chớm thu như càng tăng thêm, thấm thía hơn. Và trong nỗi buồn ấy còn gợi lên một nỗi đau mất mát:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Ngày lại ngày trôi qua, thu về, cảnh vật biến đổi, cây cối xơ xác trơ trụi, khẳng khiu như đang run rẩy, khẽ rùng mình trong gió se se lạnh: “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Cảm nhận về cái rét đến trong gió của Xuân Diệu là một cảm nhận mới. Thiên nhiên xôn xao, cựa mình – điều ấy thể hiện qua nghệ thuật sử dụng phụ âm “r” (rụng/rũa/run rẩy/rung rinh) và phụ âm “m” (mỏng manh) – không giống thiên nhiên trong thơ cổ mang nét tĩnh lặng, ngay cả khi “Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo” (Mùa thu câu cá – Nguyễn Khuyến) thì cả không gian thiên nhiên thu vẫn chủ yếu là tĩnh lặn Cùng với “lá vàng” trong thơ Nguyễn Khuyến, ai cũng biết bức tranh “Mùa thu vàng” của danh họa Lê-vi-tan, nhưng không đâu có một màu vàng mới và độc đáo như màu vàng của đất trời vào thu trong “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu. Đó không phải là những đốm vàng nhỏ mà là cả một “không gian vàng” – một màu vàng “mơ phai” rất riêng rất khó lẫn. Đó là màu vàng của “cái hồn thu qua sắc lá” (Tạ Đức Hiền) làm mùa thu bớt buồn và thêm thi vị, thêm đáng yêu. “Mùa thu tới!” – Xuân Diệu đã nhận được bức thông điệp của mùa thu và đã reo lên sung sướng: “Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!”. Giai điệu rộn rã của tiếng reo khiến ta cảm giác hình như Xuân Diệu đang hát lên tiếng hát khát vọng giao cảm với cuộc đời. Bước chân đến với trời thu của thi sĩ đầy “giục giã”, “vội vàng”.
Cùng mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng nếu như thiên nhiên trong “Đây mùa thu tới” đẹp thướt tha, thì thiên nhiên trong “Tràng giang” lại mang vẻ đẹp hùng vĩ rợn ngợp của “trời rộng”, “sông dài”:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
…”Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Thiên nhiên ở đây đậm sắc màu cổ điển. Dòng sông mênh mang, chảy dài giữa không gian vắng lặng, bát ngát. Những con sóng gối lên nhau lớp lớp không bao giờ dừng như nỗi buồn miên man không dứt. Song song với con thuyền buông trôi, thụ động phó mặc cho cuộc đời, không một chút hi vọng là biểu hiện của nỗi buồn chia lìa, li biệt. Bao nhiêu ngả nước, bấy nhiêu ngả sầu, cảnh ở đây rất sầu: từ “con thuyền”, “cành củi khô” đến “nước”, “sóng” và cả “bờ xanh”, “bãi vàng”, “bến cô liêu” đều mang nỗi sầu lớn. Nỗi “buồn điệp điệp” triền miên lan tỏa xuyên suốt bài thơ và cồn cào, day dứt nhất ở hình ảnh cuối bài: