Đề bài: Tìm hiểu mối quan hệ kế thừa – phát triển giữa con người “kẻ sĩ hiện đại” với con người Nho sĩ truyền thống
Lịch sử dân tộc là một dòng chảy liên tục giữa các thế hệ, các giai đoạn theo quy luật kế thừa – phát triển. Từ hình thái nhà nước phong kiến đến hình thái nhà nước xã hội chủ nghĩa là quá trình vận động phát triển không ngừng và luôn luôn thay đổi về chất. Tuy nhiên, có nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp vẫn được trân trọng giữ gìn. Không biết tự bao giờ, vai trò của kẻ sĩ đã luôn được đề cao và tôn vinh, dù lịch sử luôn đổi thay với nhiều biến cố, thăng trầm. Điểu này có nghĩa kẻ sĩ – trí thức là thành phần quan trọng của xã hội, góp phần làm nên giá trị văn hóa, văn minh cho cộng đồng, quốc gia. Vì thế xem xét vai trò, đặc điểm của mối quan hệ kế thừa – phát triển giữa con người “kẻ sĩ hiện đại” với con người Nho sĩ truyền thống là một việc làm cần thiết, giúp các – “kẻ sĩ hiện đại” – có một cái nhìn khách quan hơn về giá trị của mình.
“Nho sĩ truyền thống” và “kẻ sĩ hiện đại” được dùng để chỉ đối tượng trí thức trong xã hội ở những thời đại lịch sử khác nhau. “Nho sĩ” là cách gọi tầng lớp trí thức sống trong chê độ phong kiến, chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng phong kiến. Mọi giá trị làm nên bản sắc của Nho sĩ được gói trọn trong ba khái niệm : tu thân, xử thế và chữ nhân. “Kẻ sĩ hiện đại” là tầng lớp trí thức của xã hội Việt Nam thời hiện đại.
Như chúng ta đã biết, nhà nước phong kiến sở dĩ duy trì được lâu dài trong lịch sử là vì các triều đình đã tạo dựng uy quyền trên nền tảng của hai yếu tố: đó là kỉ cương nghiêm ngặt và sự trọng dụng hiền tài. Trong nhiều thế kì, hệ thống tư tưởng, luân lí phong kiến dựa trên cơ sở tư tưởng của Nho giáo đã thấm nhuần rất sâu vào đời sống tinh thần người Việt.
Trong chế độ phong kiến ngày xưa, tầng lớp Nho sĩ được coi là tinh hoa của xã hội, là nguyên khí quốc gia. Đối với họ thì các tố chất như kỉ cương và tài đức là vô cùng quan trọng. Nho sĩ là người quân tử trên thờ trời đất, thờ vua ; dưới thờ cha mẹ ; trong thương yêu anh em, vợ con ; ngoài tín nghĩa với bạn bè, làng xóm.
Nhà Nho tôn thờ Trời nên làm bất cứ việc gì họ cũng phải cân nhắc có hợp đạo Trời hay không. Đạo Trời ở đây là những quy luật khách quan của vũ trụ mà con người cần tuân thủ. Nhà Nho đặt lòng trung thành với vua lên hàng đầu vì theo quan niệm Nho giáo thì vua là Thiên tử (con Trời), thay Trời hành đạo.
Trung quân ái quốc là lí tưởng cao quý của tầng lớp Nho sĩ, dù là trong bất cứ tình huống nào, lúc thuận cũng như lúc nghịch, lúc hưng cũng như lúc phố. Thậm chí vua bắt chết là phải chết, không được phép chống lệnh: Quân xử thần tử thần bất tử bất trung (Vua bắt bề tôi chết mà bề tôi không chết là không trung thành). Trung quân theo quan niệm của Nho giáo là trung thành với bậcThiên tử đứng đầu bách tính, cai trị thiên hạ. Lí tưởng trung quân thôi thúc kẻ sĩ sẵn sàng xả thân vì vua, vì nước. Trung quân gắn liền với ái quốc. Gương sáng của lòng trung quân ái quốc có thể kể đến Tô Hiến Thành, Trần Thủ Độ, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi… Hay như Lê Lai đã liều mình cứu chúa để Lê Lợi thoát khỏi tình thế hiểm nguy nơi trận mạc.
Các nhà Nho ngày xưa đề cao đạo hiếu. Trên thì trung với vua, dưới thì hiếu với cha mẹ. Nguyễn Đình Chiểu ra kinh ứng thí, trước ngày thi thì nhận được tin mẹ mất, đã bỏ thi quay về chịu tang. Dọc đường, do thương khóc mẹ quá nhiều nên bị mù cả hai mắt. Nhà Nho cũng rất có trách nhiệm với gia đình, thương yêu, lo lắng cho vợ con. Khi không làm gì giúp ích được cho vợ con thì buồn bực, day dứt và tự trách mình: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không… (Thương vợ – Tú xương). Nhà Nho coi trọng tình bạn gắn bó, tri âm tri kỉ. Giai thoại về chàng Dương Lễ để vợ đi nuôi bạn là Lưu Bình, tạo điều kiện cho bạn mình học hành, đỗ đạt còn lưu truyền đến tận ngày nay. Bài thơ Khóc Dương Khuê của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến thể hiện tình bạn sâu sắc và cảm động:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!
Nhớ từ thủa đăng khoa ngày trước,
Bác với tôi, tôi bác cùng nhau…
Bạn thân giờ đã mất, để lại một khoảng trống rất lớn trong tâm hồn Nguyễn Khuyến, không gì bù đắp được:
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa ;
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn…
Tuy nhiên, do sống trong thời đại phong kiến, chịu sự chi phổi của hệ tư tưởng văn hóa phong kiến nên nho sĩ truyền thống có những đặc điểm riêng tạo thành nét đẹp văn hóa truyền thống. Đó là lối sống khép mình vào lễ nghĩa, là sự tu dưỡng công phu, trở thành mẫu mực trong mọi quan hệ xã hội, rèn khả năng kiềm chế, nghiêm khắc với mình (tu thân). Trong xử thế, “Nho sĩ truyền thống” chú trọng đề cao lối sống theo đạo lí và bằng cách đó khẳng định nhân cách của mình. Người “Nho sĩ truyền thống” coi trọng ý thức trách nhiệm, bổn phận với gia đình, cộng đồng và cao hớn tất thảy là Tổ quốc. Kết quả của ý thức trách nhiệm đó là Nho sĩ được đảm bảo và tôn vinh về danh dự. Khi nói tới con người “Nho sĩ truyền thống”, còn một điểm nữa không thể không nhắc đến, đó là mục đích của việc học. Nho sĩ truyền thống coi việc học hành, thi cử và đỗ đạt phải gắn liền với con đường hoạn lộ, tức là làm quan. Học để giúp vua, giúp nước. Học để có địa vị, chức tước, uy thế trong xã hội.
Các nhà Nho xưa ngày đêm quan tâm lo lắng tới việc dân việc nước. Trong thời loạn, họ sẵn sàng xả thân phò vua đánh giặc. Trong thời bình, họ giúp vua xây dựng giang sơn gấm vóc với tinh thần: Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc (lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ). Nguyễn Trãi phò chủ tướng Lê Lợi suốt mười năm kháng chiến đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Sau khi đất nước hòa bình, ông tiếp tục làm quân sư cho vua Lê xây dựng nghiệp lớn, mặc dù cuộc đời riêng phải chịu nhiều oan trái. Nguyễn Bỉnh Khiêm, quan Trạng nguyên dẫu tuổi đã ngoại chín mươi vẫn ngày đêm lo lắng cho sự an nguy của xã tắc. Nhà Nho Nguyễn Công Trứ một đời ngang dọc để thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ của một trang nam nhi với vua, với nước, bởi ông quan niệm rằng: Vũ trụ nội mạc phi phận sự (Trong vũ trụ, không có việc gì mà không phải là việc của ta), ông cùng với dân mở rộng làng mạc, khai khẩn đất hoang, đào kênh trị thuỷ. Sau khi qua đời, Nguyễn Công Trứ được dân chúng nhiều nơi lập đền thờ, tôn là “phúc thần”.
Các nhà Nho xưa coi những câu tục ngữ như: Tốt danh hơn lành ảo, Chết trong hơn sống đục, Chết vinh hơn sống nhục làm phương châm sống vì ý nghĩa của nó giống với đạo lí mà họ tiếp thu được từ chốn cửa Khổng sân Trình, từ sách vở của thánh hiền, Vì vậy, những ai được coi là “kẻ sĩ” đều có phẩm chất, tiết tháo của người quân tử: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất (Giàu sang không thể mua chuộc, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục). Những ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng cho khí tiết trung thực, thanh cao của người quân tử là hình ảnh cây trúc: Trúc dẫu cháy tiết ngay vẫn để, hoặc cây thông:
Một mình lạt thủa ba đông,
Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng
(Nguyễn Trãi)…
Truyện Chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ viết từ thế kỉ XVI đã đề cao tinh thần khẳng khái, trung thực, dám đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, trừ hại cho dân của một kẻ sĩ tên là Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin vào công lí chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà. Ngô Tử Văn đã châm lửa đốt ngôi đền mà hồn ma tên tướng giặc phương Bắc họ Thôi chiếm giữ để trừ hại cho dân lành trong vùng. Hồn ma tên tướng giặc kiện chàng dưới Minh ti (Âm phủ). Trước Diêm vương, chàng vẫn không hề sợ hãi, tìm mọi cách vạch trần bộ mặt giả dối và bản chất thâm hiểm của kẻ bất lương. Cuối truyện, tác giả bình luận: Than ôi! Người ta thường nói: “Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại sợ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm ?
Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vụ ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
Nguyễn Dữ đã mượn lời bình để một lần nữa khẳng định khí tiết cương trực, bất khuất đáng ca ngợi của người quân tử.
Trong chế độ phong kiến, việc chiêu hiền đãi sĩ được quan tâm hàng đầu. Trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba do tác giả Thân Nhân Trung biên soạn theo lệnh của vua Lê Thánh Tông có câu: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Trong Chiếu cầu hiền mà Ngô Thì Nhậm thay mặt Quang Trung Nguyễn Huệ soạn ra sau khi đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, lập nên triều đình nhà Nguyễn có đoạn mang nội dung khẳng định những kẻ sĩ chân chính, những bậc hiển tài phải mang tài đức ra phò vua giúp nước, góp phần xây dựng đất nước thái bình thịnh trị: Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tù. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy… Trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên như thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.
Lí tưởng chung của kẻ sĩ là: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Kẻ sĩ coi trọng năm đức: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Nhân để thành người tốt. Nghĩa để thu phục lòng người, Lễ để luyện tâm chính. Trí để được thành danh. Tín để gặt thành công) và coi đó là quy tắc sống bất di bất dịch. Dù là đệ tử thánh hiền nhưng sống không đúng với chuẩn mực đạo đức trên thì cũng không xứng danh là kẻ sĩ chân chính.
“Kẻ sĩ hiện đại” đã kế thừa và phát huy phẩm chất cao đẹp của Nho sĩ ngày xưa. Họ chính là tầng lớp trí thức được giáo dục và đào tạo theo đường rối xã hội chủ nghĩa và lí tưởng cách mạng của Đảng, của Bác Hồ. Họ đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực xã hội. Với trình độ hiểu biết và nắm vững khoa học kĩ thuật, các trí thức đã đem hết nhiệt tình, khả năng để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, hiện đại. Họ mạnh dạn xóa bỏ cái cũ lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ. Muốn cuộc sống trở nên thực sự có ý nghĩa, những “kẻ sĩ hiện đại” cũng đã xác định cho mình một lí tưởng và mục đích sống đúng đắn, cao đẹp. Lòng trung quân, ái quốc của các nhà Nho xưa giờ đây chuyển thành trung với nước, hiếu với dân. Bên cạnh đó, phần lớn “kẻ sĩ hiện đại” cũng vẫn giữ được truyền thống đạo đức của các nhà Nho xưa trong hoàn cảnh mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy cán bộ, Đảng viên phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và cố gắng rèn luyện cho mình quan điểm sống: Mình vì mọi người, mọi người vì mình.
Bên cạnh đó, “kẻ sĩ hiện đại” không ngừng phát huy cái dũng của kẻ sĩ đó là tinh thần dám nghĩ dám làm và thái độ thắng không kiêu, bại không nản trong học tập, trong làm việc. Câu nói: Khoa học đi đôi với dũng khí rất chính xác bởi dũng khí là tố chất cơ bản của người làm công tác nghiên cứu khoa học. Nó giúp cho họ giữ vững lập trường, quyết tâm thực hiện đến cùng lí tưởng mà mình theo đuổi.
Ngày xưa, các nhà Nho “trên thông thiên văn, dưới tường địa lí”, thì ngày nay, tầng lớp trí thức tiếp cận được khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới như công nghệ sinh học, công nghệ hóa chất, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tin học v.v… Ngày xưa, ông cha chúng ta lên trời, xuống biển bằng thần thoại, cổ tích ; còn ngày nay, thế hệ trẻ bay vào khoảng không vũ trụ, lặn xuống đáy đại dương, thám hiểm lòng đất… bằng khoa học kĩ thuật. Trí thức ngày nay có những hoài bão, ước mơ lớn lao và khả năng thực hiện mà tầng lớp Nho sĩ xưa không có được. Đây là cái khác cơ bản của “kẻ sĩ hiện đại” với Nho sĩ truyền thống.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta mở cửa giao lưu và hội nhập với thế giới, nền kinh tế thị trường toàn cầu tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của xã hội Việt Nam. Dân tộc ta bước vào vận hội mới với bao khó khăn, thách thức. Muốn ngẩng cao đầu tự tin vững bước, tầng lớp “kẻ sĩ hiện đại” cần phải nhìn nhận và đánh giá bản thân một cách nghiêm túc để thấy rõ mặt yếu cần khắc phục, mặt mạnh cần phát huy. Cố gắng vươn lên học tập cái hay, cái tốt của thế giới với thái độ khiêm tốn, cầu tiến, tự chủ và sáng tạo. Điều quan trọng là vẫn gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của “kẻ sĩ Việt Nam” chân chính. Nho sĩ ngày xưa, “kẻ sĩ hiện đại” hôm nay, tuy tên gọi khác nhau nhưng cái gốc của tài đức vẫn giống nhau. Phẩm chất cao đẹp của nhà Nho xưa thật đáng trân trọng. Ngày nay, chúng ta phảỉ cố gắng học tập, làm việc noi gương các bậc tiền bối để cống hiến thật nhiều cho quê hương, đất nước.