Đề bài: “- Tao muốn làm người lương thiện. – Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết không!… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…”
Hại câu nói cuối cùng của nhân vật Chí Phèo đã bộc lộ rõ chủ đề của tác phẩm. Hãy phân tích và chứng minh.
Dựa vào hai câu nói cuối cùng của nhân vật mà tiến hành phân tích rõ và đầy đủ chủ đề của tác phẩm: xã hội thực dân phong kiến đã đẩy một con người vốn hiền lành lựơng thiện vào con đường tha hóa khiến họ rơi vào cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, không có lốỉ thoát (khai thác hai ý cơ bản trong hai câu nói: ”Tao muốn làm người lương thiện” nhưng “không ai cho tao lương thiện, tao không thể là người lương thiện nữa”, và chỉ còn một cách là tự kết liễu đời mình bằng một cái chết bất đắc kì tử). Chủ đề mang giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.
Bài làm
Đọc “Chí Phèo” của Nam Cao đọng lại trong tôi là cái kết của câu truyện, một kết cục bi thảm và tất yếu dành cho nhân vật chính. Nhưng đó cũng là một cái kết đầy tính nhân đạo cao cả: “Tao muốn làm người lương thiện.
– Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…”
Tôi nhớ đến một câu nói của Gorki: “Con người, tất cả ở trong con người”. Cái lớn nhất mà Nam Cao đã làm được với thiên chức một nhà văn là đã phát hiện ra phẩm chất người trong hình hài của một con quỷ làng Vũ Đại. Những lời nói cuối cùng của Chí Phèo đã làm sáng lên, bừng lên ước muốn được làm người, khát vọng được hoàn lương của hắn. Từ cái chết ấy nhà văn muốn gửi đến bạn đọc bức thông điệp màu xanh về tác phẩm của mình rằng: con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ, dù bị chà đạp, bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi thì ẩn sâu trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những tia sáng của bản tính lương thiện, bản chất người.
-“Tao muốn làm ngưởi lương thiện”. Đó là câu nói thành thực nhất, tiếng đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong cuộc đời đã bị tha hóa một cách khủng khiếp của Chí Phèo. Khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất, là lúc còn kịp nhận ra nghĩa lí của cuộc sống chính là ở hai chữ lương thiện kia, để rồi điều đó bỗng trở thành khát vọng của hắn sau bao ngày vật vã với rượu và những lời chửi bới “tao muốn”, lần đầu tiên cái mong muốn của Chí Phèo không phải là dăm đồng bạc lẻ của cụ Bá, không phải dăm cút rượu hay một ít đồ nhắm, những nhu cầu vật chất mà là một mong muốn có tính trừu tượng, sự lương thiện.
Nhận ra điều ấy, Chí Phèo càng ý thức được “Tao không thể là người lương thiện nữa”. Dường như đây không còn là lời mà Chí nói với Bá Kiến nữa, đó là lời hắn nói với chính mình. Trước đó hắn không hề biết đến cái gọi là lương thiện, cũng không biết mình đã mất đi những cái cơ bản nhất trong một con người. Giờ đây khi nhận ra thì cũng là lúc hắn mất tất cả. Và cái chết là lối thoát Chí chọn cho mình, để chứng thực cho sự nguyên vẹn của cái gọi là lương thiện. Có lẽ khi hắn nhận ra mình không thể lương thiện được cũng là lúc hắn hiểu sự lương thiện không thể dung nạp những kẻ như hắn.
Những câu nói của Chí Phèo khép lại cuộc đời đen tối của hắn nhưng dội lại những năm tháng hắn đã sống, gợi lại những kí ức đau thương và cả nỗi ngọt ngào mà mới hôm qua, hôm kia thôi hắn còn được hưởng nhưng hôm nay đã tuột khỏi tầm tay. Đó vừa là lời tố cáo xã hội lại vừa như một tiếng nói khẳng định lại bản chất của Chí Phèo trong ý thức rất rõ rệt của hắn. Câu chuyện với bao nhiêu chi tiết, tình huống như gói gọn, đọng lại ở mấy câu nói ấy. Người ta đọc được ở đó những ý định tâm huyết của Nam Cao khi viết “Chí Phèo”.
Theo dọc cuộc đời Chí Phèo ta sẽ thấy những lời nói cuối cùng hắn như một sự tổng kết về số phận của mình, một lời trăng trối mang tính triết lí và nhân bản rất cao. Chí cũng từng là một người lương thiện khi hắn còn là một nông dân hiền lành đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng hắn đã thực sự tha hóa, mất cả nhân hình lẫn nhân tính từ khi đi tù về. Tình yêụ với Thị Nở chính là một sự thôi thúc, cảm hóa chất lưu manh trong con người hắn. Nhưng tiếc rằng hắn đã lấn sấu trong tội lỗi, cho nên dù có ham muốn được trở lại làm người bình thường thì cũng không được nữa. Ai đó sẽ cho hắn lương thiện?
Chí Phèo là một thằng lưu manh cùng hơn cả dân cùng. Có lẽ hắn cũng ý thức được điều ấy trước khi kết liễu đời mình. Thực tế khắc nghiệt đến mức một thằng liều quá nửa đời người như hắn vẫn phải nhận ra. Nam Cao đã đặt Chí Phèo trong một không gian thu nhỏ – làng Vũ Đại – nhưng có sức bao quát lớn: xã hội đương thời. Hãy cứ coi Vũ Đại chỉ là một làng xã nhưng chớ coi thường phạm vi của nó. Ở đó hội tụ những hủ tục, nề nếp, trật tự và những mối quan hệ. Trên cùng của hệ thống làng xã là cụ Bá Kiến ăn ngôi trên chỉ từng được mệnh danh là “lí trưởng, chánh tổng, bá hộ, chánh hội đồng, kì hào, huyện hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Sau cụ Bá là hàng loạt phe cánh cường hào như một bầy cá tranh mồi dồn lại để bóc lột nhân dân nhưng vẫn ngấm ngầm chia rẽ, mưu hại nhau. Trong cái vòng vây ấy, những người dân chứ chưa nói đến Chí Phèo đã khổ cực lắm rồi. Hạng nông dân như Chí là hạng không được chút quyền hạn nào trong làng, không cha mẹ, người thân thích, không mảnh đất cắm dùi, không đồng bạc trong tay thì thử hỏi đâu là quyền sống? Cái cùng cực của Chí Phèo là cùng cực của một kẻ chỉ có thể chấp nhận chứ không có quyền thắc mắc, phản đối, chống lại.
Nam Cao đặt biệt chú ý đến cụ tiên chỉ của làng Vũ Đại, điều hành mọi quyền bính trong làng. Dưới ngòi bút của nhà văn, hình ảnh cụ Bá hiện lên với những dáng nét sắc thái rất đậm, vừa mang đầy quyền lực mà vẫn không để lộ cái bạo tàn, hách dịch. Cụ Bá không có cái thô lỗ, ngu dốt của những tên trọc phú khác ấy là bóc lột người một cách cổ tiền, thô sơ. Cụ có mưu mẹo của cụ, nó hình thành trong lời ăn, tiếng nói rất đỗi khôn ngoan của cụ, những thủ đoạn mà cụ bày ra thường chỉ làm cho con mồi mắc bẫy chứ không bao giờ cụ bể mặt “cụ vẫn tự hào vì cái cười hơn người của mình”. Trong cái cười của Bà Kiến ẩn chứa bao nhiêu là xảo quyệt, gian manh, bao nhiêu mưu kế chưa được thực hiện. Hắn đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành thành một tên tù khổ sai với bộ dạng không còn là người nữa. Hắn đã giam hãm Chí Phèo trong nhà tù của luật pháp, hắn lại còn giam hãm Chí lần thứ hai, lâu dài hơn, trong nhà tù không vách, không xà lim, song sắt, ấy là làng Vũ Đại và sự ghẻ lạnh của mọi người, ở đó Chí Phèo là một tay sai đắc lực cho hắn. Trước Chí Phèo, Bá Kiến đã từng biết cách cai trị “những thằng liều” như Năm Thọ, Binh Thức, hắn có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng. “Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì “thương anh túng quá”!” Những đồng bạc của hắn, những cái cười nhạt mà khanh khách, cái liếc mắt, lời quát mắng dọa nạt cùng những câu dịu giọng chính là cái bẫy để che mắt Chí Phèo, hòng lợi dụng “máu cùn” trong những thằng liều lĩnh “lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Sự hiện diện của Bá Kiến càng đậm nét thì cái hệ thống thống trị làng xã Việt Nam càng lộ rõ bản chất xấu xa, bỉ ổi của nó. Đó là cái chốn mà Chí Phèo không bao giờ có thể tìm thấy cái gọi là lương thiện.
Không ai cho Chí Phèo lương thiện bởi vì hắn bị những lừa lọc, gian xảo bao vây xung quanh; những trò chém giết rạch mặt ăn vạ, xin đểu, ăn cướp giữa ban ngày vốn không phải là điều lạ lẫm đối với Chí Phèo. Nhưng có một điều mà Chí Phèo chỉ có thể cảm nhận, chứ không nắm bắt được hình hài một cách cụ thể, đó là sự cô đơn, lạc lõng giữa mọi người. Đã trắng tay, không nơi nương tựa, Chí lại không có lấy một ai để ý. Những người bình thường đều xa lánh hắn. Sự lương thiện xa lánh hắn. Không ai nghe hắn chửi, hắn không có ai để mà chửi. Đối tượng chửi của hắn là tất cả mọi người, thiên nhiên, trời đất, là vô tận mà không là ai cả, là cái gì cụ thể cả. Thậm chí khi “hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại” thì “cả làng ai cũng nghĩ chắc nó trừ mình ra”. Càng vì thế tiếng chửi càng trở thành ngôn ngữ riêng để Chí Phèo tự trấn an mình. Nó như một phản ứng quen thuộc giúp Chí quên đi sự xa lánh của mọi người. Hắn chửi để còn cảm giác sẽ có ai đó nghe được lời của mình. Dường như chưa đủ Chí tìm đến rượu. Đối với hắn ngày tháng, tuổi tác đều không có nghĩa lí gì, cả cuộc đời hắn là một cơn say bất tận, “mênh mông”, “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say”. Sau những câu văn Nam Cao, ta cảm thây rất rõ bước đi thất thểu, xiêu vẹo, cái giọng lè nhè, cùng cực của một con ma men. Ở đâu Chí Phèo xuất hiện là có tiếng chửi và cơn say rượu. Nếu vũ khí của Bá Kiến là nụ cười Tào Tháo thì vũ khí của Chí Phèo là hai thứ ấy. Hắn say để quên đi sự tồn tại của mình, quên đi quá khứ hiện tại, những vết rạch mặt, những vũng máu, những giọt nước mắt khổ sở của bao người dân vì hắn. Và một điều Chí rất rõ, ấy là khi tỉnh táo “hắn cảm thấy mình trơ trọi”. Mâu thuẫn trong con người Chí Phèo chính là mâu thuẫn giữa nỗi sợ sệt cái mình có với sự liều lĩnh. Cho nên càng sợ hắn lại càng muốn quên, muốn sống. Chính bản thân Chí Phèo đã không nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống, hắn không tự mình tìm đến, tạo cơ hội cho lòng tốt phát sinh thìi làm sao có được sự lương thiện?
Cuộc sống chỉ thực sự mỉm cười với Chí khi đời hắn có Thị Nở. Sự xuất hiện của thị cùng với tình yêu đã hoàn sinh cho hắn. Hình ảnh của Thị Nở như một điểm sáng trong câu truyện một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, triền miên say của Chí Phèo. Mọi mâu thuẫn, xung đột, sự thay đổi lớn của truyện đều xuất phát từ Thị Nở. Có thể nói là phương tiện để Nam Cao đưa Chí Phèo trở về khát vọng hoàn lương.
Không cần biết đến một Thị Nở dở hơi, một người đàn bà xấu như ma chê, quỷ hờn. Có cái mặt là “một sự mỉa mai của hóa công”, “bề ngang hơn bề dài”, Chí Phèo đã yêu và tình yêu ấy giúp hắn nhận thức rõ hơn về sự tồn tại của mình. Lần đầu tiên trong hắn nảy sinh những cảm xúc, tình cảm của một người bình thường, không say rượu, không chửi bới, hắn “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”, “nao nao buồn”. Thử tưởng tượng xem một con ma rượu mà cho đến lúc này cũng “sợ rượu như những người ốm thường sợ cơm”. Tình yêu khơi dậy trong hắn ý thức về bản thân, dù chỉ là “mơ hồ” nhưng hắn cũng hiểu đó là cái buồn của một con người. Hắn cảm thấy xung quanh đang thay đổi, xôn xao, rạo rực. Một tiếng chim vui vẻ, những tiếng người cười nói, tiếng mõ… đối với hắn như là điều lạ lẫm, hấp dẫn. “Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có”. “Chí Phèo chưa bao giờ nhận thấy thế bởi chưạ bao giờ hắn hết say”. Và lúc này khi có đến 5 ngày không say rượu, hắn lắng nghe thế giới bằng tất cả lòng mình, cảm nhận và tận hưởng như một đứa trẻ mới chập chững biết đi. Thế giới trong mắt hắn là hàng chuỗi những điều kỳ diệu, mới lạ. Cái ngạc nhiên của Chí lên đến cao độ khi hắn nhận được sự chăm sóc từ Thị Nở: bát cháo hành. Hắn ngạc nhiên và “thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp. Bát cháo gợi mở trong hắn những tia sáng về sự tốt đẹp, quan tâm, săn sóc của con người trong cuộc sống. Kẻ cùng đinh, liều lĩnh ấy nhận ra một chân lí giản đơn: “Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon”. Cái nhận thức có vẻ ngây ngô và hiển nhiên ấy là đúc rút đầu tiên của Chí Phèo trong quãng đời bị tha hóa. Phải chăng đó chính là tiền đề cho sự trỗi dậy mạnh mẽ khát vọng làm người trong Chí. Càng tiếp xúc với thế giới một cách tỉnh táo, Chí Phèo càng khám phá ra những điều mới mẻ, tốt đẹp, trong hắn càng đậm thêm cái khái niệm về cuộc sống. Chí nhớ lại quãng đời cũ và so sánh giữa ngày đó với bây giờ. “Hắn muốn làm nũng với Thị Nở như với mẹ”. Rồi “hắn thấy thèm lương thiện”. Cao hơn, Chí muốn làm một người để yêu: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Tâm thế của Chí Phèo được nâng dần lên. Cái buồn hòa quyện để nâng niềm vui của Chí lên mỗi lúc một cao hơn. Nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả những biến thái, dù là rất nhỏ trong tâm trạng nhân vật. Chỉ một phát hiện của Chí Phèo về bát cháo hành cũng đủ để ta nhận ra ham muốn sống của hắn rồi; nó xóa đi những năm tháng khổ đau cũ trong cuộc đời của hắn, lấp đi cái lưu manh, liều lĩnh hàng ngày và mở ra một hi vọng về một thế giới đổi thay tốt đẹp, thế giới của lương thiện. Và cánh cửa lương thiện dường như đã mỉm cười với hắn. Không ai cho Chí Phèo lương thiện, điều đó không có nghĩa là hắn đã mất đi bản chất lương thiện. Ước mong về một cuộc sống bình dị ngày nào đã trở lại với hắn. Thị Nở đã lôi nó lên giữa một đống hỗn tạp, gai góc và phủ lên tâm hồn Chí một cái nhìn đầy lạc quan.
Nhưng sự xuất hiện của Thị Nở như một tia sáng lóe lên rồi lại vụt tắt trong cuộc đời Chí Phèo. Người đàn bà ấy giống như một cách thức để Nam Cao soi rọi ánh sáng lương thiện vào tâm hồn Chí, tái hiện lại những phẩm chất người trong hắn để càng nhân mạnh hơn bi kịch của hắn. Bởi lẽ Chí “không thể làm người lương thiện được nữa rồi”. Thị Nở, chỗ dựa cuối cùng của hắn, đã từ bỏ hắn. Hắn thấy mình lâm vào bi kịch của những ngày tháng cũ, những cơn say liên miên, những khung cảnh cướp giật, rạch mặt ăn vạ, những lời chửi bới và nỗi cô đơn đến khủng khiếp. Thị Nở đã không thể cứu vớt hắn, mọi nẻo đường đến với lương thiện đều đóng kín. Thà rằng hắn cứ là một thằng cùng đinh liều lĩnh, tay sai của Bá Kiến, không biết gì về cuộc sống bên ngoài. Thà rằng hắn cứ yên phận mà ngông nghênh giữa làng còn hơn biết đến một tình yêu, một lối sống mới mà không được tận hưởng. Cho nên Chí Phèo “càng uống lại càng tỉnh ra”. Cái tỉnh của hắn là cái tỉnh của một người muốn sống mà bất lực với cuộc sống đó. Nỗi bất hạnh của hắn giờ đây còn nặng hơn gấp trăm lần bất hạnh trước đó hắn từng trải qua. Ai sẽ là người cứu vớt hắn khỏi vực sâu của tội lỗi, làm sao hắn có thể xóa được những vết đâm chém trên mặt hắn? Hắn nhận ra một điều hiển nhiên là mọi người không chấp nhận sự tồn tại của hắn nên sẽ không dung nạp lòng tốt của hắn. Cả làng Vũ Đại chỉ biết đến hắn trong vai trò một con quỷ dữ, liệu có ai tin khi hắn muốn trở thành một người bình thường? Xã hội kia, cụ Bá ăn tiên chỉ làng Vũ Đại có dễ dàng dung nạp cho hắn? Trước đây muốn sống được thì phải liều, bầy giờ hiền lành chắc chắn không phải là một lối sống có thể giúp hắn tồn tại. Đó là một qui luật tất yếu. Đây mới chính là hiện thân đầy đủ, cao cả nhất, sâu sắc nhất con người đích thực vẫn tiềm ẩn bấy lâu trong dân trí. Con người ấy biết suy nghĩ, lựa chọn, đặt ra những tình huống có thể xảy đến với mình khi mọi lối thoát đều đã hết.
Trở lại với những câu nói ở cuối truyện của Chí Phèo, ta thấy đó là biểu hiện cao độ của khát vọng được làm người. “Ta muốn làm người lương thiện” là sự trỗi dậy mạnh mẽ, đánh dấu bước nhận thức mới trong con người Chí. Nếu trước đó hắn chỉ lơ mơ hiểu về cái tốt đẹp khi tỉnh rượu, rồi hiểu thế nào là nghĩa lí cuộc sống khi ăn bát cháo hành của Thị Nở thì đây là lúc hắn lên tiếng đòi cái quyền được sống cho mình. Chính vì càng ý thức được khát vọng sống cho nên Chí Phèo cũng hiểu ra: “Tao không thể làm người lương thiện nữa rồi”. Xã hội ấy không có chỗ đứng cho một kẻ muốn hoàn lương như hắn. Hắn đã ở trong vòng vây của lỗi lầm quá lớn, hắn đã bị xô đẩy vào chốn tối tăm mà ở đó ngay cả sự lương thiện cũng không thể cứu vớt được hắn. Những câu nói tất yếu của Chí Phèo không chỉ là lời khuyến cáo dành cho cụ Bá Kiến, ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, mà là lời tố cáo chung dành cho cái xã hội tàn ác, chà đạp quyền sống của con người. Tiếng nói lương thiện không chỉ là khát vọng riêng của cá nhân Chí Phèo, nó còn là tiếng nói cao cả nhất của những người nông dân từng bị áp bức, tước đoạt mọi quyền làm chủ bản thân. Phải chăng đó cũng là tiếng nói vừa phát hiện lại vừa nâng đỡ chất người trong Chí, trong những kẻ tha hóa muốn hoàn lương. Trong lời nói của Chí Phèo ánh lên chất nhân bản của tác phẩm. Dường như kết cục của cuộc đời Chí chính là một lối thoát mà Nam Cao đã dành cho nhân vật này để ông nâng vai trò con người trong Chí lên một mức độ cao hơn, con người đích thực. Mọi dụng ý nghệ thuật hầu như đều dồn lại ở cái kết cục đó. Chí Phèo chết bởi vì ham muốn có được sự lương thiện nhưng xã hội, mọi người không cho hắn cơ hội đó. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về mình, về sự ghẻ lạnh của mọi người đối với hắn, về mơ ước tới một cuộc sống đích thực. Cái chết là sự hối cải cuối cùng mà Chí còn có thể làm được trong cuộc đời đầy rẫy tội lỗi của hắn. Chi tiết này vừa bộc lộ được giá trị hiện thực lại vừa đậm tính nhân bản.
Người ta nói trong mỗi truyện ngắn nhà văn đều chọn cho mình một mục tiêu để vươn tới những yếu tố cần thiết để phục vụ cho mục tiêu đó. Sẽ có những đoạn, những chỗ mà ý định, tâm huyết của người cần bút hiện lên rất rõ rệt, có khi thành định nghĩa, quan niệm. Không nêu lên một khái niệm cụ thể về chất nhân bản trong con người, nhưng cái kết của “Chí Phèo” là một lời khẳng định về khát vọng sống của con người. Mọi chuẩn bị trước đó dường như chỉ để đợi cái giây phút Chí Phèo bật lên tiếng nói căm phẫn, đòi hỏi sự lương thiện. Chủ đề của truyện đến đây được nâng lên thành ý nghĩa nhân đạo cao cả. Chí Phèo đã nói hộ Nam Cao những điều mà nhà văn muốn nói, muốn đem đến cho con người.