Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải (Mẫu 2)

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải (Mẫu 2)

Đề bài: Phân tích – Bình luận bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải

Bài làm 

Tuy sinh sau Tản Đà sáu năm, nhưng Trần Tuấn Khải vẫn được coi là nhà thơ lãng mạn cùng thời với Tản Đà. Nếu Tản Đà có những ước mơ thoát tục vươn lên chốn bồng lai, thì thi sĩ họ Trần có bút danh Á Nam lại thường trốn tránh thực tại, thả hồn về với quá khứ, nhất là những trang lịch sử quá khứ hào hùng của dân tộc. Qua những câu chuyện, những nhân vật lịch sử, Trần Tuấn Khải gửi gắm lòng yêu nước, thương dân một cách thiết tha mà kín đáo. Nhà thơ Xuân Diộu nhận xét : “Các đề tài của lịch sử nước nhà giúp cho Á Nam cái cớ và cái chất để phóng túng ngòi bút, mở rộng tâm tình và cũng kích động đồng bào, bởi người Việt Nam ta rất yêu nước, động đến lịch sử là rung động dây đàn yêu nước, thương nòi của mọi lòng người”. Tác phẩm Hai chữ nước nhà là tiếng nói yêu nước của nhà thơ, cũng là những lời “kích động” tấm lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta lúc bấy giờ. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, hoá thân vào nhân vật Phi Khanh (“Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu”), nhà thơ yêu nước Trần Tuấn Khải muốn thức tỉnh nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX hãy đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, cứu Tổ quốc. Nghĩa trực tiếp của bài thơ – nhất là của đoạn đầu 36 dòng thơ song thất lục bát – là lời cha dặn con, nhưng ý nghĩa chính, cảm hứng bao trùm là tiếng hịch của non sông đất nước truyền ra, thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí quật cường, cứu nước của tuổi trẻ Việt Nam. Tiếng hịch ấy vang lên từ hơn tám mươi năm trước mà ngày nay đọc lại, chúng ta vẫn xúc động.

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải (Mẫu 2)

Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải (Mẫu 2)

 

Tám câu thơ mở đầu vẽ lại khung cảnh hai cha con Phi Khanh – Nguyễn Trãi trò chuyện và nỗi lòng sầu tủi của mỗi người :

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần hước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Cuộc chia li diễn ra nơi biên cương thật heo hút, ảm đạm. Trông lên Bắc, phía Trung Quốc, chi thấy mây sầu. Nhìn về Nam, quê hương đất Việt chỉ nghe tiếng gió dìu hiu. Xung quanh bốn bề rừng núi là tiếng hổ thét, chim kêu,… Đây là điểm giáp ranh hai nước Việt – Trung. Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Phi Khanh, thì đây là điểm cuối cùng để rồi vĩnh biệt Tổ quốc, quê hương. Tâm trạng ấy đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc thê lương và cánh vạt ấy lại càng như giục cơn sầu trong lòng người. Ngôn ngữ và giọng điệu thơ thấm một nỗi buồn và rất gợi cảm. Nhà thơ đã hoá thân vào tâm trạng Phi Khanh, miêu tả ngoại cảnh thời kì Phi Khanh – Nguyền Trãi sống, nhưng vẫn gợi cho người đọc không khí thời đại những năm hai mươi đầu thế kỉ XX u ám, sầu thương. Ngôn ngữ thơ tuy có chút cũ kĩ, ước lệ vẫn tạo được không khí cho toàn bài, nhất là nó có ý nghĩa tạo nền cho tâm trạng hai cha con trong cuộc biệt li. Bốn câu tiếp ngay sau đó rớm máu và đẫm lệ. Cha thì uất nghẹn, hòn máu nóng thấm quanh hồn nước ; con thì sụt sùi, tầm tã châu rơi. Hoàn cảnh ấy thật éo le. Cha bị bắt sang Tàu, không ngày trở lại. Con muốn đi theo, phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu. Cha rất hiểu lòng con. Nhưng chữ trung lớn hơn chữ hiếu nên cha dằn lòng khuyên con trở lại để lo việc nước. Câu chuyện lịch sử kì diệu, thiêng liêng dó, người dân Việt Nam ai cũng biết và cũng đã từng được nhiều văn nghệ sĩ kể lại, nay được Trần Tuấn Khái nhấn mạnh thêm. Cho nên dù trong ngôn từ có “máu” hoà với “châu rơi”, lời cha dặn vẫn rất chân thành và thiêng liêng, không chút sáo mòn, ước lệ. Nói khác đi, đây là lời trăng trối, lòi huyết lệ của tình cha con, cũng lạ lời non sông đất nước. Câu cuối của đoạn thơ : “Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên” rất mộc mạc mà nghe nhói tận trong tim. Nó truyền cám, lay mạnh trái tim người đọc chúng ta. Nhưng có lẽ của cuộc đời và lòng người như thế được thể hiện bằng thể thơ song thất lục bát – một thể thơ vừa gân guốc, trang trọng, vừa mềm dịu, thiết tha – thường dùng làm những khúc ngâm, những trường ca trữ tình. Trong văn học trung đại Việt Nam, chúng ta đã được đọc Chinh phụ ngâm khúc nổi tiếng theo bản dịch chữ Nôm của Đoàn Thị Điểm. Giờ đây, đọc khúc ngâm mở đầu Hai chữ nước nhà này của Trần Tuấn Khái, ta như gặp lại những âm điệu của Chinh phụ ngâm khúc vừa tự sự, vừa miêu tả trữ tình, biểu ý và biểu cảm khá hài hoà.

Xuống đoạn hai – 20 dòng thơ tiếp theo – Nguyễn Phi Khanh nhắc nhở con trai (cũng là lời Á Nam), nhắn gửi người đời về tình cảnh đất nước dưới gót giày quân xâm lược. Sau mấy lời tóm tắt truyền thống anh hùng của dân tộc “Giời Nam riêng một cõi này – Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì”, là bức tranh thê thám của non sông đất nước:

Bốn phương khối lửa hừng bừng,
Xiết hao thảm hoạ xương rừng máu sông !
Nơi đô thi thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giong dễ còn thương đâu !…

Về nghĩa gốc, doạn thơ miêu tả “vận nước” ta khi bị “quân Minh thừa hội xâm lãng”. Nhưng người đọc cảm nhận rõ đây chính là hình ảnh quê hương, Tổ quốc Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và sự suy dồi bạc nhược của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Những hình ảnh đặc tả khói lửa hững hừng, thành tung quách vỡ kết hợp với những hình ảnh ẩn dụ xương rừng, máu sông và những chi tiết khái quát bỏ vợ lìa con, xiêu tán hao mòn,… nối tiếp nhau hiện lên. Tác giả dã nhập vai nhủn vật Phi Khanh – một nạn nhân vong quốc đang đi vào cõi chết – vừa miêu tả hiện tình đất nước vừa lên án tội ác kẻ thù. Cho nên, lời thơ vừa tả thực vừa trĩu nặng những cám xúc chân thành, xót thương và căm. giận. Chắc rằng, người đọc những năm hai mươi của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc đã dỗ dàng dồng cảm với nhà thơ khi đối chiếu ngôn ngữ hình ảnh thơ với thực tế cuộc sống, đất nước ta lúc bấy giờ. Hơn nữa, sau những dòng thơ cực tả như thế, tác giả trực tiếp bày tỏ cảm xúc bàng những lời cảm thán, những tiếng nói từ gan ruột mà thốt lên :

Thâm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này !
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sóng Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi ! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?…

Trừ hai tiếng “con ơi” là lời của Phi Khanh gọi Nguyễn Trãi, còn lại, tất cả chính là lời của nhà thơ, hơn nữa, đây là lời của non nước nhắn gửi quốc dân đồng bào. Vì thế, tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh lớn lao, kì vĩ: đất khóc, giời than, Khói Nùng Lĩnh xây khối uất, Sóng Hồng Giang nhường vật cơn sầu,… Nỗi đau mất nước, mất tự do như lên đến tột đỉnh, kết lại thành những cơn đau xé tâm can, những khối đau cuồn cuộn mịt mờ như sương khói phủ tối núi non, những dòng đau cuồn cuộn, vật vã như sóng nước sông Hồng. Nhà thơ đã sử dụng nhiều từ ngữ khoa trương, nhiều ẩn dụ đặc sắc rất sát hợp những cung bậc cảm xúc vừa đau đớn xót xa vừa căm hờn cháy bỏng. Chẳng rõ, khi viết những dòng thơ này, Á Nam có nghe tiếng đồng vọng của những lời trong Hịch tướng sĩ, nhất là những câu trong Bình Ngô đại cáo ngày xưa :

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bào thần nhân chịu được ?

Dù thế nào thì đây vẫn là những tiếng hịch truyền, những lời bố cáo của một tủm hồn yêu nước thiết tha mong muốn thức tỉnh nhân dân, đồng bào nhận rõ hiện tình đất nước để có những suy nghĩ, những hành động đúng đắn, kịp thời đứng lên cứu nước.

Lời kêu gọi cứu nước tập trung ở tám dòng thơ cuối :

Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Trở lại với câu chuyện Phi Khanh – Nguyễn Trãi, chúng ta thấu hiểu cảnh ngộ và nỗi lòng của người cha đau đớn. Có lẽ, đau cho thân phận của riêng mình thì ít, mà đau cho vận nước đang cơn bĩ cực thì nhiều, nên Phi Khanh đành “bó tay”, chấp nhận “thân lươn bao quản lấm đầu” để gửi gắm tất cả khát vọng và niềm tin vào con trai, vào thế hệ trẻ bấy giờ :

Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…

Lời Phi Khanh dạy con, hay chính là những tâm sự của Trần Tuấn Khải muốn gửi tới các bạn đọc đương thời ? Nghe giọng điệu bên ngoài thì rõ ràng đây là lời cha dạy con. Các từ ngữ cậy con, con nên nhớ… vang lên trang trọng, tha thiết. Song suy ngẫm vào nội dung bên trong của “lời dạy”, ta hiểu rằng đây cũng là lời tâm sự sâu kín của chàng thi sĩ trẻ Trần Tuấn Khải. Bởi vì, tác phẩm Hai chữ nước nhà này được viết năm 1926, lúc nhà thơ 31 tuổi, hẳn chưa dám lên tiếng dạy ai, kêu gọi ai. Nói khác đi, chàng thi sĩ lãng mạn đã hoá thân vào nhún vật lịch sử để giãi bày tâm sự, khát vọng của chính mình. Thấm thìa cảnh ngộ của Phi Khanh và chắc cũng đồng cảm với nỗi niềm Nguyễn Trãi ngày xưa, nhà thơ đã suy ngẫm về lịch sử dân tộc rồi giãi bày khát vọng của chính mình bằng những lời tâm huyết nhất : “Con nên nhớ tổ tông khi trước…”. Người thanh niên yêu nước Á Nam “Nghĩ lời ông Phi Khanh…” hay đang mượn lời lịch sử tự dặn mình, để chia sẻ với thế hệ của mình ?

Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Hình ảnh “ngọn cờ độc lập” in “máu đào” của cha ông được khẳng định rằng “còn dây” mang nhiều nghĩa. Nó vừa nhắc thế hệ con cháu ngày nay niềm tự hào vể truyền thống anh hùng dân tộc, vừa giục giã, khích lệ hành động. Đối chiếu với mấy lời Phi Khanh mở đầu cuộc chia tay “Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên”, ta nhận rõ hơn ý nghĩa đoạn thơ cuối này. Đó vùa là lời của cha ông dặn lại con cháu, cũng là lời hịch của lịch sử, của đất nước vọng về, là lời tâm sự của nhà thơ muốn chia sẻ những khát vọng và niềm tin tới thế hệ trẻ, tới nhân dân lúc bấy giờ. Ngày nay, đọc lại những dòng thơ này, chúng ta làm sao không đồng cảm với nhà thơ những khát vọng, niềm tin cao đẹp ấy ? Hình ảnh “ngọn cờ độc lập” tuy kết thúc đoạn trích nhưng lại nhắc ta nhớ tới mấy dòng thơ phần đầu khá ấn tượng :

Giời Nam riêng một cỗi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì !

“Người Việt Nam ta rất yêu nước, động đến lịch sử là rung động dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người…”. Nhà thơ Xuân Diệu từng nêu lên một nét truyền thống tốt đẹp như thế trong tâm hồn Việt Nam chúng ta. Từ những dòng đầu nối kết với mấy dòng cuối, khúc ca Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải đã rung dộng “dây đàn yêu nước” trong lòng bạn đọc một thời và truyền tới chúng ta ngày nay như thế đó.

Có thể nói, Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Trần Tuấn Khải. Nhà thơ mượn một câu chuyện lịch sử đặc biệt, có sức gợi cảm lớn là cuộc chia tay giữa hai cha con Phi Khanh – Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Đoạn đầu 36 dòng thơ tiêu biểu cho nội dung và nét đặc sắc nghệ thuật của cả tác phẩm. Đó là lời cha dặn con, hay cũng chính là tiếng hịch truyền cứu nước chân thành thống thiết. Tinh cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thể tho thích hợp và giọng điệu trữ tình của tác giá đã tạo nên những giá trị ấy của bài thơ…

Thảo luận cho bài: Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải (Mẫu 2)