Phân tích bài Bài toán dân số của Thái An
Phân tích bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tàn Đà
Đề bài: Phân tích – Bình luận bài Bài toán dân số của Thái An
Bài làm
Quá khứ với hiện tại, hôm qua và hôm nay nằm trông sự phát triển liên tục của thời gian, có sự kế thừa và nâng cấp. Đó là quy luật khách quan để tồn tại của con người. Bởi thế, nếu phủ nhận quá khứ, thì đó là một sai lầm tai hại. Tuy nhiên, chiếc cầu nối giữa hôm nay với hôm qua có hai hình thức: hoặc là những hồn ma (Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du…) hoặc là lời tiên tri của các nhà thông thái. Nếu hình thức thứ nhất nặng về nhận thức cảm tính như một ám ảnh mơ hồ thì hình thức thứ hai lí tính hơn, khách quan hơn, nó gần như một quy luật. Bởi thế, cách tiếp nhận nó cũng không giống nhau. Ở hình thức thứ nhất, đó là giao tiếp tức thời dưới dạng giấc mơ, còn hình thức thứ hai lại tự con người phát hiện dưới dạng những văn bán ngầm có khi từ những vật vô tri, có khi từ ý nghĩa ngụ ngôn của những câu chuyện kể. Sự trùng hợp ngẫu nhiên từ những vật vô tri hay những câu chuyện kể ấy, phải thông qua những trải nghiệm, hoặc những thao tác tư duy rất hiện đại của con người mới phát hiện ra đó là chân lí vĩnh hằng. Cảm nhận của tác giả bài văn chính là từ góc nhìn không ngờ, bất chợt ấy. Tâm trạng nửa tin nửa ngờ ở đây là có thật. Bởi làm sao câu chuyện dân số của hôm nay (vài chục năm nay) lai có liên quan đến một câu chuyện kén rể của hàng “dâm báy ngàn năm về trước” ? “Tôi không tin…”, “ai mà tin”…, một cách nói ngập ngừng khi con người ta đến gần một vầng hào quang trí tuệ. Câu chuyện làm cho tác giả bài văn “sáng mắt ra” không khác câu chuyện ngày xưa Cri-xtốp Cô-lông tìm ra châu Mỹ không phải là không có căn cứ. Chỉ có điều căn cứ ấy không từ những mệnh đề lí thuyết trừu tượng của tư duy. Sự liên tưởng, do vậy thật là lí thú. Lập luận thật bất ngờ và giàu sức thuyết phục, vé cơ bản là hai câu chuyện có một cấu trúc vận động giống nhau và kèm theo sau đó là những tư liệu tham khảo để người đọc tự hoàn thành công đoạn cuối cùng: Biến khả năng thành hiện thực. Hiện thực ấy lại là một hậu quả khôn lường.
1. Hai câu chuyện song trùng giữa một bặi toán cổ và một bài toán hôm nay : vấn đề dân số. Cái dich của hai câu chuyện giống nhau dù hai đề tài khác nhau : hành trình của con người đi tìm hạnh phúc.
a) Ở câu chuyện thứ nhất : để làm rể nhà thông thái, các chàng trai phải có một tiềm lực khổng lồ đủ số thóc rải vào 64 ô trên bàn cờ tướng. Yêu cầu đó tưởng như chẳng có gì là khó, “ai cũng tưởng có gì mà không đủ”, nhưng rốt cục, ai cũng ngớ người ra (để rải đủ 64 ô, chàng trai trúng tuyển phải có đủ một lượng thóc phú kín bề mặt trái đất). Đúng là câu đố của một “nhà thông thái” ! Nhưng vấn đề có tính chất toán học kia chẳng có ý nghĩa bao nhiêu nếu nó không liên tưởng đến một bài toán khác, bài toán vể dân số của loài người.
b) Bài toán về dân số của loài người vừa giống lại vừa khác câu chuyện kén rể của người xưa. Điểm giống nhau là tốc độ gia tăng của cấp số nhân có công bội là 2, còn sự khác nhau là ở chiều hướng của sự gia tăng ấy, ở câu chuyện thứ nhất: càng tăng nhanh càng tốt, còn ở câu chuyện thứ hai : càng chậm càng hay. Vấn đề là ở chỗ: cả hai cái đích trên đây đều khó. Bài toán vể dân số loài người không dễ hơn việc được làm rể nhà thông thái bởi tính chất lưỡng phân, bởi mâu thuẫn khó dung hoà giữa tốc độ phát triển tự nhiên và ý chí con người kìm nén nó. Dường như, do phát triển theo khuynh hướng tự nhiên và đã có kiềm chế, dân số loài người từ một cặp vợ chồng (một chàng A-đam, một nàng Ê-va – theo Kinh Thánh), đến năm 1995 đã lên tới 5,63 tỉ người, nghĩa là đã đạt đến ô thứ 30 trên bàn cờ tướng. Đó là hiểm hoạ. Ây là chưa kể nguy cơ bùng nổ dân số có thể diễn ra bất cứ lúc nào, nhất là với các nước chậm phát triển ở hai khu vực châu Á và châu Phi. Từ 3,7 con đến 2 con cho mỗi cặp vợ chồng Việt Nam là một chỉ tiêu phấn đấu đã “rất khó khăn”. Ở các nước châu Phi, từ 5,8 con đến 2 con, khó khăn càng trở nên gấp bội.
2. Nếu phần thân bài là những thao tác tư duy tính toán thì phần kết bài vẫn là những số liệu băn khoăn.
Đất chật, người đông, tự nó sẽ huỷ diệt. Khi đất dành cho mỗi con người chỉ còn là diện tích một hạt thóc (ô thứ 64 trên bàn cờ tướng), trái đất chác sẽ nổ tung mà ngòi nổ chính là sự gia tăng dân số mà con người không tự kiềm chế được. Đừng để xảy ra thảm hoạ, đó là lời cảnh báo cho cả loài người, không loại trừ một ai. Nó nghiêm khắc và răn đe như một định mệnh.
3. Về bản chất, đây là một bài văn nghị luận.
Nhưng cách thuyết phục của nó không thiên về lí thuyết, lập luận cũng đơn giản nhẹ nhàng nhưng sức cảm hoá của bài văn lại không nhỏ. Từ những con số khách quan im lặng – có khi từ ngàn năm, lần đầu tiên nó dược đánh thức để nói với chúng ta những điều hộ trọng về sự còn mất của chính chúng ta, vấn đề “tồn tại hay không tồn tại” như bi kịch Ham-lét của Sếch-xpia thời Phục hưng đặt ra trong một hoàn cảnh khác, về một vấn để khác cũng quan trọng không kém về con người và sự sống của con người với quy mô toàn nhân loại.