Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chươngMà hồ cầm thường dùng chỉ một cây đàn của “thợ Hồ” tức là không phải đàn Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi đàn nhị là nhị hồ (二 胡er hu) hay là hồ cầm (胡琴 húqín). Nhưng đàn nhị chỉ có hai dây lại có cung kéo, đàn của Thúy Kiều có bốn dây, lại có khảy và nhấn. Khi đàn chỉ Kim Trọng nghe thì nàng đã:
So lần dây Vũ dây Vân
Bốn dây to nhỏ theo vần Cung Thương
Lúc bị Hoạn Thư bắt thì phải đàn cho Thúc Sinh nghe:Bốn dây như khóc như than khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng sau khi Từ Hải chết, nàng phải đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe thì:
Một cung gió tủi mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay
Đã là hồ cầm mà có bốn dây thì chỉ có đàn tỳ bà – người Trung Quốc và Triều Tiên gọi là pipa, người Nhựt Bổn gọi là biwa. Người Trung Quốc cũng gọi đàn pipa là huqin, tức là hồ cầm, vì đàn ấy không phải do người Trung Quốc chế ra mà của dân tộc vùng Tây á đem vào.
Giáo sư Nhựt Tanabe Hisao và Kishibe Shigeo cho rằng đàn pipa có thể bắt nguồn từ đàn bar at của người Ba Tư, đã theo con đường buôn bán tơ lụa ngày xưa mà nhập vào Trung Quốc, rồi sau đó sang Triều Tiên, Nhựt Bổn, Việt Nam: chính vì vậy trong các quyển truyện Kim Vân Kiều, người ta thường vẽ Thúy Kiều ôm đàn tỳ bà.Khi Thúy Kiều đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe đến chảy máu năm đầu ngón tay, làm cho Hồ cũng “nhăn mà rơi châu”, trước khi nàng được xin phép về, có than phận mình:
Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã đứt, dây đàn Tiểu lân
Tiểu Lân là Phùng Tiểu Lân, vợ vua nước Tề, đàn tỳ bà rất hay. Sau khi nghe vua nước Tề bị giặc giết, vua Võ Ðế nhà Châu bắt Tiểu Lân gả cho vua Ðại Vương tên Ðạt. Nhân khi đàn đứt dây, đã làm bài thơ: Tuy tụ kim nhựt sủng Du tích tích thời duyên Dục tri âm đoạn tuyệt Ưng khán tất thương huyền
Trong quyển Kim Túy Tình Từ, mà theo giáo sư Thuần Phong thì do chính cụ Nguyễn Du chú giải, có bài thơ nôm dịch như sau đây:
Tuy là yêu mến ngày nay
Hãy còn nhớ tiếc những ngày trước kia
Nếu muốn biết ruột gan lìa
Thì nên xem lấy dây kia trên đờn.
Cây đàn của Thúy Kiều chắc chắn sẽ là đàn tỳ bà, nếu không có câu:
Hiện sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng, Sanh đã tay nâng ngang mày
Kim Trọng thấy cây cầm trăng tức nguyệt cầm – gọi như thế là vì thùng đàn hình tròn như trăng rằm – đã nâng đàn ngang mày mời Thúy Kiều so dây nắm phím. Thùng đàn tỳ bà hình bầu dục như nửa trái lê, làm sao tròn như trăng được? Nếu mà đàn nguyệt thì thùng đàn tròn mà đàn chỉ có hai dây lại không mang tên là hồ cầm. Như thế không ổn chút nào cả. Huống chi là dưới thời cụ Nguyễn Du, tức là vào khoảng gần nửa thế kỷ thứ 18, thì nước ta có một cây đàn mà thùng tròn, cần dài mang tên là “cái đàn song vận”.
Trong sách Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình Hổ, có nói đến “đàn đáy, đàn tranh gảy bằng tiếng tơ”, và “gần đây mới chuộng đàn nguyệt, thứ hồ cầm đời cổ còn gọi tên đàn là Nguyễn cầm”, bởi ông Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra, mà không nói đến cái đàn song vân.
Chỉ trong bộ Ðại Thanh hội điển sử lệ, quyển 528, tờ số ba, có đoạn nói về dàn nhạc nước ta, sang ở tại triều nhà Thanh từ năm 1789, gọi là An Nam quốc nhạc, đến năm 1804 đổi tên là Việt Nam quốc nhạc, có nhiều cây đàn mà người Trung Quốc đã ghi tên bằng chữ nôm: một cái cổ (trống), một cái phách (sinh tiền), hai cái sáo, một cái đàn huyền tử (đàn tam), một cái đàn hồ cầm (đàn nhị), một cái đàn song vận hay là đàn nguyệt cầm, một cái đàn tỳ bà, một cái đàn tam âm la (3 cái thanh la nhỏ).
Nếu là đàn nguyệt thì tên nó là cái đàn song vận, mà lại không thể gọi là hồ cầm. Như vậy thứ cây đàn của Thúy Kiều chỉ có thể là Nguyễn cầm, vừa có thùng tròn như đàn nguyệt, có 4 dây thuộc về loại tỳ bà, mà cũng gọi là hồ cầm. Sách Thích Danh, về cây đàn tỳ bà, có chép rằng tỳ bà có ba loại: tứ huyền tỳ bà – thùng bầu dục có 4 dây, ngũ huyền tỳ bà – hình dáng như cây trước mà có 5 dây – người Triều Tiên cũng gọi là Hương tỳ bà – tức là tỳ bà của Triều Tiên, và Nguyễn cầm thùng tròn và có 4 dây to. Nguyễn cầm thì nay không còn thấy ở Trung Quốc, mà tại viện bảo tàng viện Shosoin ở tỉnh Nara ( Nhựt Bổn) còn nhiều cây Nguyễn cầm thời xưa.
Tôi lại nói thêm tin chắc rằng Thúy Kiều đã dùng cây Nguyệt cầm, khi tôi đọc một bài thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du, “Long thành cầm giả ca”, in trong quyển thứ ba Hợp tuyển văn thơ Việt Nam, tại Hà Nội năm 1963, trong đó cụ cũng để trong tay một người đàn bà ở Long Thành cây đàn Nguyệt cầm.
Long Thành giai nhân
Tính thị bất kỳ danh
Ðộc thiện Nguyệt cầm
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh
(người đẹp ở Long Thành, không biết tên họ là chi, mà tiếng đàn Nguyễn cầm rất hay, nên người trong thành đều gọi là Cô Cầm). Cụ đã gặp cô ấy hai mươi năm về trước, lúc nhan sắc cô còn lộng lẫy, tiếng đàn điêu luyện đã làm sau mê các quan Tây Sơn trong buổi tiệc ở Hồ Giám. Khi Nguyễn Văn Thành, quan tổng trấn của nhà Nguyễn hội yến, trong buổi tiệc có cụ Nguyễn Du, cụ lại được nghe tiếng đàn của người đẹp năm xưa, mà nay nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan. Tóc cụ đã bạc trắng, mà tóc Cô Cầm cũng hoa râm. Cụ xúc động làm bài thơ ấy, trong đó có đoạn tả tiếng đàn của Cô Cầm:
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như tiến phúc bi đồ toái tích lịch
Ai như Trang Tích, bệnh trung vi Việt ngâm…
Khương Hữa Dung đã dịch đoạn ấy ra như sau đây:
Dưới năm ngón cung đàn réo rắt
Trong như tiếng hạc kêu sương
Khoan như gió sớm lướt ngang rừng tùng
Mạnh như sấm sét đùng đùng
bia Tiến phúc nát từng mảnh con
Buồn như Trang Tích ốm mòn
ngâm tiếng Việt nỗi buồn quê xa…
Cụ Nguyễn Du đã cảm xúc khi nghe tiếng đàn Nguyễn cầm của người đẹp Long Thành thưở nọ. Và cây Nguyễn cầm thời ấy có lẽ cũng được nhiều người ưa thích. Cụ Nguyễn Du khi đặt trong tay nhân vật chính của truyện Kiều một cây đàn, mặc dù nhân vật đó theo sách xưa ở vào thời Gia Tĩnh triều Minh, tức là giữa thế kỷ thứ 16, cũng đã nghĩ đến cây Nguyễn cầm, nên mới có những đoạn nói về cây hồ cầm 4 dây mà thùng tròn như trăng rằm.
Khi trả lời cho anh bạn giảng viên trường âm nhạc, tôi có nhắc đến sự tích của đàn tỳ bà, đến đoạn nói về cây đàn song vận trong bộ Ðại Thanh hội điển sự lệ, đến quyển Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Ðình Hổ, đến bài Long Thành cầm giả ca, có chỗ gọi là bài Cầm giả dân, để kết luận cây đàn của Thúy Kiều không thể là cây đàn tỳ bà, hay là đàn nguyệt, chính là cây Nguyễn cầm mà ngày nay đã thất truyền.