Đề bài:
Không có vinh quang nào mà không trải qua gian khổ đắng cay. Anh chị hãy viết bài văn chứng minh để làm sáng tỏ luận điểm trên.
Bài làm:
Trong lịch sử của nhân loại có rất nhiều tấm gương phấn đấu không biết mệt mỏi, cống hiến những nghiên cứu, phát minh vĩ đại, làm thay đổi bộ mặt thế giới như Đác-uyn, Niu-tơn, Nô-ben, Men-đê-lê-ép, Ê-đi-xơn, Anh-xtanh… mà tên tuổi lưu truyền đời đời. Hoặc những tấm gương kiên trì vượt lên hoàn cảnh và số phận để đạt tới đỉnh cao vinh quang trong sự nghiệp như “vua hề” Sác-lô Sa-prin, “vua hài kịch” Mô-li-e… và đặc biệt là Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ cách mạng kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của những danh nhân nêu trên là những dẫn chứng tiêu biểu nhất chứng minh cho nhận xét: “Không có vinh quang nào mà không trải qua gian khổ, đắng cay”.
Đó là một quy luật hiển nhiên, có giá trị như một chân lí vĩnh hằng. Không có vinh quang nào tự đến với mỗi con người, mà muốn gặt hái được vinh quang, con người phải đổ mồ hôi, phải làm việc cật lực với một ý chí kiên định và quyết tâm mạnh mẽ để đạt bằng được mục đích đã đề ra, thậm chí chấp nhận thất bại không chỉ một lần mà nhiều lần vì hiểu rõ “thất bại là mẹ thành công”.
Nhà bác học người Mĩ Ê-đi-xơn sau bao năm miệt mài thử nghiệm đã phát minh ra ngọn đèn điện đầu tiên, chiếc xe chạy bằng điện đầu tiên. Anh em nhà Gra-ham Bell đã sáng chế ra chiếc điện thoại đầu tiên, để giờ đây, mạng điện thoại đã được kết nối trên phạm vi toàn cầu, phục vụ cho nhu cầu liên lạc, thông tin của cả nhân loại. Rồi tập thể các nhà bác học, kĩ sư… nghiên cứu, chế tạo ra máy bay, tàu hỏa, tàu ngầm, tàu thủy xuyên đại dương, tàu vũ trụ thám hiểm mặt trăng, sao Hỏa; những chuyên gia sáng chế ra máy tính điện tử… đều phải trải qua nhiều năm tháng, đầu tư nhiều công sức, trí tuệ, thậm chí đánh đổi cả mạng sống của mình để có được những thành công, những đóng góp hữu ích cho quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật tiên tiến, hiện đại.
Gần gũi và quen thuộc đối với chúng ta hơn cả là tấm gương phấn đấu, hi sinh cho dân, cho nước của Bác Hồ. Đầu thế kỉ XX, người thanh niên xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành đã rời quê hương, Tổ quốc ra đi để tìm đường cứu nước. Ba chục năm trời đằng đẵng, Bác Hồ đã phải trải qua rất nhiều nghề vất vả, cực nhọc: bồi bếp trên tàu biển, bồi bàn trong khách sạn, quét tuyết ở công viên, thợ sửa ảnh, phu khuân vác… Bác đã từng phải sống trong những căn nhà trọ tồi tàn. Mùa đông giá buốt, không có tiền mua than để sưởi, mua chăn để đắp, Bác đã nghĩ ra cách đặt một hòn gạch vào bếp lò của chủ nhà, tối lấy ra, bọc kĩ rồi ôm ngủ cho đỡ lạnh. Thiếu ăn, thiếu mặc, nhưng Bác không thiếu ý chí, quyết tâm và nghị lực. Lòng yêu nước, thương dân chân thành, sâu sắc, lí tưởng cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến chính là nguồn sức mạnh vô tận động viên, cổ vũ Bác trên con đường đi tìm chân lí. Anh thanh niên Nguyễn Tất Thành năm nào rời bến cảng Nhà Rồng với hai bàn tay trắng và một lí tưởng cao đẹp đã trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp, là đảng viên Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ cách mạng của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng, quân dân ta đã kiên trì kháng chiến và đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ, khiến cho tên tuổi Việt Nam trở nên lừng lẫy trên thế giới. Để đạt được kết quả ấy, Bác Hồ đã trải qua bao tháng năm vất vả khó khăn.
Anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng phiến chín năm chống Pháp đã từng sống trong cảnh mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non để rồi mới có vinh quang:
Chín năm làm một Điện Biên,
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.
Năm 1975, cả dân tộc ta đã đánh tan giặc Mĩ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để có được chiến thắng vinh quang ấy, dân tộc ta đã vượt qua bao khó khăn gian khổ, hi sinh. Như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Phải bao máu thắm trong lòng đất,
Mới ánh hồng lên sắc tự hào.
Ngày nay, xung quanh chúng ta có rất nhiều tấm gương không ngại gian khổ đắng cay, vượt qua tất cả để đạt được mục đích cao đẹp.
Ở những đại hội thể thao khu vực và thế giới, những chàng trai, cô gái trẻ Việt Nam đã mang về cho Tổ quốc những tấm huy chương vàng cao quý. Đâu phải họ chỉ luyện tập một sớm một chiều mà phải luyện tập qua bao tháng năm vất vả.
Anh Nguyễn Ngọc Kí bị liệt cả hai tay. Nhìn bè bạn cắp sách đến trường, anh rất thèm được như các bạn. Bằng ý chí, nghị lực và sự kiền trì, anh luyện cho đôi chân không chỉ cầm được bút mà còn điều khiển được cây kéo. Anh cắt chữ, dán khẩu hiệu hoàn toàn bằng chân. Anh đã học xong Tiểu học, Trung học rồi Đại học và trở thành thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí. Anh đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú.