Đề bài: Cảm hứng về quê hương đất nước được nói lên thiết tha và sầu lắng trong thơ thời kì kháng chiến chống Pháp.
Anh (chị) hãy:
1. Nêu lên những cảm nhận của mình về gương mặt quê hương đất nước trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng cầm và đoạn trích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
2. Nhận xét về nét chung và đặc điểm riêng của cảm hứng về quê
Tình yêu quê hương đất nước là một nguồn thơ không bao giờ với cạn trong văn học nước ta. Đó là cảm hứng chủ đạo của thơ kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng ấy được nói lên thiết tha và sâu lắng trong nhiều bài thơ mà tiêu biểu là Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Việt Bắc của Tố Hữu – hai bài thơ của hai vùng quê đất nước: quê hương Kinh Bắc và quê hương Cách mạng.
Bài thơ được Hoàng cầm viết ra trong một đêm “thức trắng” khi anh nghe tin giặc Pháp chiếm đóng và tàn phá quê hương Kinh Bắc thân yêu của mình. Đó là nỗi lòng của đứa con yêu gửi về quê mẹ với niềm xót xa căm giận và niềm tự hào yêu thương một vùng quê cổ kính đẹp giàu mà anh đã từng gắn bó suốt tuổi thơ. Gương mặt quê hương hiện lên trong bài thơ vừa đau thương, đẹp giàu, lại anh hùng – tình nghĩa; cảnh sắc và con người hòa quyện với nhau thành những ấn tượng đặc sắc khó quên.
Quê hương bị giặc tàn phá hiện lên qua những vần thơ xót xa căm giận, với một nỗi đau thật cụ thể, như là có thể cảm giác được:
Sao xót xa như rụng bàn tay.
Đó là những “ngày khủng khiếp” nhất: ruộng khô, nhà cháy, quán đổ, chợ tan… là mẹ già “bước cao thấp bên bờ tre hun hút” chạy trốn lũ giặc: là em bé trong mơ cũng “thon thót giật mình” bởi “bóng giặc giày vò những nét môi xinh”!… Nỗi đau ấy day dứt suốt bài thơ trong cái điệp khúc “Bây giờ tan tác về đâu” để rồi đúc lại trong lời nguyền phẫn nộ:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn.
Quê hương ấy là vùng đất Kinh Bắc đẹp giàu và có truyền thống văn hóa lâu đời. Bằng niềm tự hào mãnh liệt về vùng quê nổi tiếng của mình. Hoàng cầm đã dựng lên gương mặt quê hương thật đẹp và đáng yêu. Quê hương ấy có dòng sông Đuống lấp lánh chảy giữa đôi bờ “ngô khoai biêng biếc”, “dâu mía xanh xanh”, có mùi lứa nếp thơm nồng dậy khắp làng quê, có “tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong – màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Đó còn là vùng quê của hội hè đình đám quanh năm, của những nghề thủ công nổi tiếng – là một trong ba cái nôi văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Quê hương đẹp giàu ấy lại là nơi sinh ra những con người anh hùng mà tình nghĩa. Hình ảnh những người du kích đánh giặc hiện lên sáng đẹp cả câu thơ:
Dao lóe giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
đã làm cho chúng “phát điên, quay cuồng như xéo trên đống lửa”. Và những bà mẹ chiến sĩ đón con bộ đội về trong đêm, ấm áp tình quân dân kháng chiến:
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
… Những chuyện muôn đời không nói năng.
Bằng tình yêu quê hương tha thiết và lòng căm thù giặc sâu sắc. Hoàng Cầm đã dựng lên gương mặt vùng quê Kinh Bắc của mình thật đúng và cũng thật đẹp, và từ trong đau thương, quê hương giàu đẹp ấy đã đứng dậy đánh giặc để chờ ngày giải phóng, đoàn tụ trong những mùa lễ hội mới.
Gắn bó với Việt Bắc trong “mười lăm năm thiết tha mặn nồng”, tháng 10-1954, khi đã về Hà Nội giải phóng, qua nỗi nhớ sâu nặng của mình. Tố Hữu đã dựng lên gương mặt quê hương cách mạng anh hùng – tình nghĩa bằng khúc hát giao duyên ngọt ngào. Được lọc qua nỗi nhớ ân tình, quê hương cách mạng hiện lên lung linh rực rỡ, lại đằm thắm trữ tình và ngời sáng khí phách anh hùng của căn cứ địa cách mạng thần thánh.
Việt Bắc không nói đến những nỗi đau như Bên kia sông Đuống, bởi vì bài thơ vừa là một khúc ca ân tình lại là một bài ca chiến thắng của một thời kì lịch sử. Quê hương cách mạng trong những ngày “trứng nước” gian nan hiện lên ngậm ngùi qua “miếng cơm chấm muối”, qua những “mái nhà hắt hiu lau xám”, và nhất là qua hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng – dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”…
Nhưng đó lại là vùng đất đẹp và đáng yêu đối với những ai đã từng gắn bó. Tố Hữu đã viết nên những câu thơ ca ngợi quê hương cách mạng bằng tình cảm mến yêu tha thiết của mình. Việt Bắc hiện lên với nhiều vẻ đẹp phong phú, gợi cảm. Có những cảnh thơ mộng trữ tình:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.
những cảnh hùng vĩ:
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Nhưng đẹp nhất là “bức tranh tứ bình” của Việt Bắc qua bốn mùa, chan hòa màu sắc, ánh sáng, âm thanh, đẹp như trong cảnh thần tiên:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Việt Bắc không phải chỉ đẹp về cảnh mà còn đẹp về người. Đó là những con người anh hùng mà tràn đầy tình nghĩa quê hương cách mạng. Anh hùng biết bao, cảnh “Việt Bắc ra quân” hùng tráng như đã cầm chắc chiến thắng trong tay:
Những đường Việt Bắc của ta
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Và tình nghĩa xiết bao, tấm lòng người dân Việt Bắc đối với cách mạng – vật chất đơn sơ nhưng tình thì thật sâu nặng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.
Tình nghĩa đó là của những người lao động nghèo trên quê hương cách mạng – những con người dã đi vào nỗi nhớ của nhà thơ và hiện lên rất đẹp, rất đáng yêu trong bài thơ: bà mẹ nắng cháy lưng, người đan nón chuốt từng sợi giang, cô em gái hái măng một mình… Tình nghĩa ấy được đúc lại trong đạo lí Việt Nam: “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”,
Cuối cùng, Việt Bắc còn là vùng đất lịch sử, là quê hương cách mạng, căn cứ địa thần thánh của cách mạng. Nó là một vùng đất thiêng, vùng đất kỉ niệm của toàn dân tộc. Ở đó có những địa danh đã đi vào lịch sử “Mái đình Hồng Thái, cây da Tân Trào”, có những chiến thắng vang dội núi sóng, có cuộc họp trang nghiêm dưới lá cờ Tổ Quốc:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công.
Và thiêng liêng, ấm áp, đầy niềm tin vì ở đó có Bác Hồ. Sáu câu thơ cuối đoạn trích đã nâng Việt Bắc lên một tầm cao mới: Việt Bắc đã đi vào lòng dân và đi vào lịch sử dân tộc:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa.
Dưới ngòi bút của nhà thơ cách mạng Tố Hữu, quê hương cách mạng Việt Bắc hiện lên đẹp, đáng yếu và gắn bó với mọi người chúng ta. Nó đã trở thành quê chung của mỗi một người Việt Nam yêu nước.
a. Nét chung
Hoàn cảnh sáng tác và đối tượng miêu tả có thể khác nhau, nhưng đều là cảm hứng về quê hương đất nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp, nên hai bài thơ có những nét chung dễ nhận thấy:
– Cảm hứng về quê hương đốt nước đau thương và căm thù trong chiến tranh (mang âm hưởng xót xa căm giận).
– Cảm hứng về quê hương đất nước giàu đẹp (mang âm hưởng ca ngợi tự hào).
– Cảm hứng về nhân dân anh hùng – tình nghĩa (mang âm hưởng ca ngợi tự hào).
Tụy đậm nhạt có thể khác nhau do mục đích sáng tác và tính chất của từng bài thơ, nhưng ba cảm hứng trên đây đều có trong hai bài thơ như đã phân tích ở mục 1. Những cảm hứng đó đều bắt nguồn từ lòng yêu quê hương đất nước tha thiết, niềm tự hào mãnh liệt về đất nước giàu đẹp, nhân dân anh hùng – tình nghĩa, và lòng căm thù giặc sâu sắc của các nhà thơ. Nó trở thành những cảm hứng truyền thống trong thơ ca kháng chiến.
b. Đặc điểm riêng
Thơ là tiếng nói của từng cá nhân – thi sĩ, nó không thể không mang cảm hứng riêng của từng nhà thơ. Huống chi hoàn cảnh sáng tác và tính chất của các bài thơ lại không giống nhau. Vì vậy, trong cảm hứng chung lại có những nét riêng của cảm hứng về quê hương đất nước trong từng bài thơ. Và cảm hứng riêng đó đã dựng lên những gương mặt đất nước không giống nhau qua mỗi bài thơ:
– Bên kia sông Đuống: Đất nước là quê hương Kinh Bắc cổ,kính, một vùng quê văn hóa lâu đời với tranh Đông Hồ đậm màu sắc dân tộc, với tiếng chuông chùa ngân nga văng vẳng, với lễ hội tưng bừng rộn rã quanh năm, với những con người không thể nào lẫn được: “những cô hàng xén răng đen – cười như mùa thu tỏa nắng … Và hình ảnh cô gái Kinh Bắc duyên dáng trữ tình ây cứ thấp thoáng an hiện trong suốt bài thơ… Là người con của quê hương quan, họ, cảm hứng của Hoàng cầm mang đậm chất Kinh Bắc: thiết tha, day dứt, sâu lắng, ngọt ngào.
– Việt Bắc: Đất nước được hội tụ và kết tinh lại trong hình ảnh quê hương cách mạng anh hùng tình nghĩa. Bài thơ là khúc hát ân tình của con người kháng chiến với quê hương cách mạng, là nghĩa tình thủy chung sâu nặng giữa người về xuôi và người ở lại trong giờ phút chia tay lịch sử. Cảm hứng của Tố Hữu đối với quê hương cách mạng là cảm hứng của người trong cuộc đã từng sống, hiểu và yêu quê hương cách mạng thiết tha mặn nồng. Đó là tình cảm chính trị nhưng lại được nói lên một cách tự nhiên bằng giọng điệu tâm tình dịu ngọt như lời người yêu trong khúc hát đối đáp giao duyên.
Hai bài thơ là hai gương mặt đẹp về quê hương đất nước: một vùng đất Kinh Bắc dân gian – cổ kính, một quê hương cách mạng tình nghĩa – anh hùng. Nó sẽ là những hành trang tinh thần theo ta đi suốt cuộc đời trên những nẻo đường dựng xây đất nước.