Bình giảng bài thơ bên kia sông đuống của Hoàng Cầm

Đề bài. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Bên kia Sông Đuống” của Hoàng cầm:

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Bây giờ tan tác về đâu”.

YÊU CẦU

Bình giảng làm nổi bật 2 ý: niềm tự hào về quê hương Kinh Bắc giàu đẹp, có truyền thống văn hóa lâu đời và nỗi xót đau căm thù khi quê hương bị giặc tàn phá (qua giọng thơ đầy xúc cảm). Đó cũng là 2 biểu hiện sóng đôi, quấn quýt nhau trong cảm hứng về quê hương đất nước của thi sĩ.

Bài làm

Trong, sáng tác thơ, có một điều vừa tự nhiên vừa kỳ diệu, dường như mỗi nhà thơ đều có quê hương để mà ký thác, hoài niệm đồng thời mỗi quê hương cũng nhự tìm đến và trao gởi hồn vía của mình cho một vài thi nhân nào đó. Thi nhân ấy mang bao suy tư, nỗi niềm đam si, chiêm nghiệm ký thác vào hình tượng quê hương, tôn vinh hình tượng quê hương, và quê hương yêu dấu gợi ý mách bảo, góp phần thăng hoa cảm xúc thơ, làm nên gương mặt tinh thần của thi nhân qua những hình tượng thơ. Đó là trường hợp Tố Hữu, Hàn Mặc Tử với xứ Huế, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi với Hà Nội; và đặc biệt là Hoàng Cầm với quê hương Kinh Bắc. Thi sĩ Hoàng Cầm và thơ Hoàng cầm thật sự là thi sĩ của Kinh Bắc và thơ thuộc về Kinh Bắc, vinh hạnh ấy Hoàng cầm đá đánh đổi bằng cả cuộc đời thơ của mình với tất cả niềm vui, nỗi buồn, với bao nếm trải mưa nắng, thăng Ị,rầm “nghệ sĩ thật sự vĩ đại trước hết phải là nghệ sĩ của một dân tộc, một quê hương “.

 

Đọc thự Hoàng Cầm, “những vần thơ dễ làm ta chày nước mắt thấy hiện lên cảnh vật và người Kinh Bắc một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền Mi, miếu mạo, biết bao hội hè gắn với những sinh hoạt văn hóa nổi tiếng:

Hội Gióng, Hội Lim, Hội Chùa Dâu,… Đọng trong âm hưởng và nhịp điệu thơ ông là âm hưởng trầm bổng của những làn điệu dân ca đất Kinh Bắc rất đỗi quen thuộc với tâm hồn Việt Nam. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của thơ Hoàng Cầm. Cả bài thơ đắm trong cảm xúc đau xót, tiếc nuối, xót xa căm hận trước cảnh tượng quê hương Kinh Bắc vốn thanh bình, tươi đẹp bỗng chốc bị giặc tăn phá. Mỗi khổ thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hóa, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao hưởng trầm hùng thấm đậm chất trữ tình qua từng điệp khúc tâm tình. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng và tạo được sự truyền cảm sâu xa:

“Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…”

Bao nhiêu yêu dấu, ân tình đọng trong mấy tiếng “Quê hương ta”. Đây quê hương Kinh Bắc với những đặc sản đặc trưng của cuộc sông vật chất và tinh thần. Hình ảnh thơ không tả mà biểu hiện. Đây là những dòng thơ được chắt lọc từ dòng tâm thức của nhà thơ, cũng là của chung những người con của Kinh Bắc mỗi khi nhớ về quê hương, chi bằng vài ba từ biểu cảm “thơm nồng”, “nét tươi trong”, “sáng bừng”… người đọc có thể hình dung được nét rạng rỡ trên gương mặt đầy tự hào của nhà thơ khi nghĩ về quê hương. Cái hương vị thơm nồng, “đậm đà khó quên” của lúa nếp làng Vân còn gợi nên cuộc sông của những người lao động trong cảnh ấm no hạnh phúc và thanh bình. Hương vị ấy được chưng cất từ ruột đất mẹ do công lao chăm bẵm khó nhọc của người lao động, hương vị ấy còn là thơm thảo của tấm tình người dân quê hương muôn dâng hiến cho cuộc đời. Đến nhá thơ hương vị ấy lại được chưng cất thành thơ, đến với mọi người để cùng chia sẻ vị thơm nồng với quê hương Kinh Bắc.

Những bức “tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong” lại là một phương diện khác, độc đáo kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. “Nét tươi trong” là màu sắc ưa màu sáng, rạng rỡ, hồn nhiên, trong lành. Những bức tranh làng Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và khống kém phần dí dỏm của người lao động: Đánh ghen, Hứng dừa, Xem vật, Đám cưới chuột,…, không chỉ “tươi trong” bới được vẽ bằng màu sắc chắt lọc từ nguyên liệu thảo mộc của quê hương, mà còn bởi tâm hồn bình dị sáng trong luôn mang khát vọng sống lạc quan của người lao dộng. Nghệ sĩ dân gian đã làm sống dậy được phẩm chất và tâm hồn dân tộc. Nếu nổi trong thơ có “nhãn tự” thì những chữ “thơm nồng”, “sáng bừng” trong những dòng thơ trên là một biểu hiện như vậy. Nhà thơ đã dùng những hình thức biểu đạt giản dị và hàm súc nhất để diễn tả vẻ đẹp đặc trưng, và thiêng liêng nhất về quê hương của mình. Không có cuộc sống gắn bó máu.thịt với quê hương, không thá thiết với vẻ đẹp tinh túy của truyền thống quê hương, không thể có được những mần cảm kì diệu như vậy. Đọc những dòng thơ Hoàng Cầm viết vẻ Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương của mình…, và cảm ơn nhà thơ Hoàng Cầm đã nói đúng phần hồn linh nghiệm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.
Vì quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sông trọn trong trái tim nhà thơ, nên khi giặc tràn tới, cả quê hương ngập chim trong khói lửa chiến tranh, nhà thơ đã diễn tả nỗi đau xót cầm hờn xen lần tâm trạng tiếc nuôi xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Nhịp thơ ở khổ trên, khi diễn tả cuộc sống thanh bình, đều đặn dàn trải, ổn định. Đên khổ thơ này câu thơ, nhịp thơ đều xáo trộn, dồn dập như nhịp đập của con tim hồi hộp xúc động khi biết tin quê hương bị tàn phá. Hình ảnh thơ tạo nên sự tương phản đối xứng, là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ, phù hợp với qui luật cảm xúc. Nếu ở khổ thơ trên hình ảnh “lúa nếp thơm nồng” gợi nhớ về những cánh đồng quê mỗi mùa vụ sây hạt nặng bông của cuộc sống thanh bình, thì ở khổ thơ này hình ảnh những cánh đồng quê khô cháy bởi “ngọn lửa hung tàn” của chiến tranh, khơi dậy lòng căm hận, xót xa sâu nặng. Có nét đồng điệu trong cảm xúc giữa hình ảnh “Ôi những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều” trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi với “Ruộng ta khô, nhà ta cháy” của Hoàng cầm. Cảm thức về tình yêu quê hương đất nước thường bắt đầu từ những hình ảnh chân thực đấy gợi cảm ấy.
Và đây nữa hình ảnh những bức tranh Đông Hồ “gà lợn nét tươi trong” của cuộc đời thường nhật bình yên bỗng chốc bị đảo lộn. Hình tượng thơ nửa hư, nửa thực cổ sức ám ảnh lạ lùng. Kẻ thù đã đến “kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang” những ngôi nhà bình yên treo những bức tranh Đông Hồ quen thuộc bị xéo nát. Tác giả đã hình tượng hóa thành bức thông điệp nghệ thuật giàu giá trị gợi cảm. “Mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa dôi ngả – đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã, bây giờ tan tác về đâu?”.
Câu thơ nhắc ta nhớ lại hình ảnh trong bài “Chạy Tây” của nhà thơ Nguyền Đình Chiểu thuở nào:
“Bỏ nhà lủ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ dàn chim dáo dác bay”.
Mỗi cách diễn tả có hiệu quả biểu cảm riêng, gieo vào lòng người đọc nỗi đau xót . trước cảnh trẻ thơ và tổ ấm hạnh phúc bỗng “tan đàn xẻ nghé”. Cùng một tư duy nghệ thuật (nổi về chiến tranh, hình ảnh thương tâm nhất vẫn là phụ nữ và trẻ thơ), nhưng thơ của Hoàng cầm sử dụng hình ảnh ẩn dụ mang bản sắc riêng của Kinh Bắc. Đây là một sáng tạo nghệ thuật thuộc về phong cách tho Hoàng Cầm – “thực tại nơi Hoàng Cầm cơ hồ thăng hoa tới những miền lưu viễn của tâm linh’. Nói kẻ thù tàn phá mà viết “ngùn ngụt lửa hung tàn”, để rồi đưa vào hình ảnh “mẹ con đàn lợn âm dương chia lìa đôi ngả…” quả là một tư duy nghệ thuật đậm chất nhân bản. Nhà thơ vo Cao trong bài “Núi đôi” khi diễn tả nỗi đau trước cảnh quê hương bị tàn phá cũng đã có một hình ảnh thật dáng nhớ:
“Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc đến
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”.
Thân cau nơi ngõ chùa bình yên cháy đỏ, thì tính chất nghiêm trọng của chiến tranh đã đến cực điểm. Nếu làm một thông kê về những hình tượng độc đáo diễn tả nỗi đau trước cảnh quê hương bị xâm lược, chắc chắn sẽ cổ được những tư liệu bổ ích về quê hương trong chiến tranh.
Yêu thương và căm hờn là hai trạng thái cảm xúc đồng hành trong tâm trạng con người trước nỗi đau nước mất nhà tan. Vì vậy đôi lập với hình ảnh gợi tình cảm yêu thương đầy nuối tiếc là những hình ảnh kẻ thù man rợ:
“Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu”.
Trạng thái cảm xúc hờn căm quân xâm lược kết tinh cô đọng trong hai câu thơ có sức diễn tả mạnh. Lưỡi lê vấy máu của kẻ thù được miêu tả trong liên tưởng “lười dài lê sắc máu” của đàn chó ngộ, giúp ta hình dung khá tường tận bộ mặt hung hãn vô độ của lũ giặc ngoại bang mất hết nhân tính. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” có hai lần tác giả nhắc đến kẻ thù, cả hai lần đều diễn tả bằng những câu thơ đầy ấn tượng. Một lần miêu tả bộ mặt hung hãn bằng sắc diện chung, lần sau miêu tả sự hung hãn qua hành động cướp bóc:
“Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc Tan phiền chợ nghèo”,

Tác giả đã chớp được hình ảnh đặc trưng của lũ giặc Tây “xì xồ” cướp bóc làm tan phiên chợ nghèo dân dã. Văn thơ truyền thông, khi nói đến kẻ thù xâm lược thường sử dụng lối so sánh mang tính ẩn dụ. Kẻ thù được vật hóa với tất cả những hành động thú tính như loài dê chó đê hèn. Nhà thơ Hoàng cầm đã góp thêm những hình tượng độc đáo vừa vẽ lại được những hình ảnh kẻ thù, vừa để hả mối căm hận đang ngùn ngụt trong lòng.

ben kia song duong hoang cam

Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi tu từ: “Bây giờ tan tác về đâu?”. Nhịp thơ trở lại ổn định diễn tả tâm trạng lơ lắng, xót xa đến nghẹn ngào. Trong bài thơ, những câu kết đoạn đều là một câu hỏi tu từ, chứa chất nỗi niềm của đứa con xa quê đang hình dung về quê hương bị dày xéo: “Sao xót xa như rụng bàn tay?”; “Bây giờ tan tác về đâu?”; “Bây giờ đi đâu về đâu?”. Đó là những nốt nhấn trầm tạo điệp khúc dư ba cho bản nhạc tâm tình của nhà thơ.

Được biết bài thơ ra đời trong một đêm giữa tháng tư năm 1948 khi tác giả nghe tin giặc tàn phá quê hương Kinh Bắc của mình phía bên kia sông Đuống. Ông “cực kì xao xuyến, tâm tư chồng chất những nhớ thương, tiếc nuối, xót xa với cảnh với người nơi quê bị tàn phá, giết hại cùng với một niềm căm hận sâu lắng” (Dẫn theo “Để học tốt văn 12”). Hoàn cảnh đã thổi bùng cảm xúc về tình yêu tha thiết, mê say dối với quê hương chất chứa tiềm ẩn trong lòng nhà thơ, và đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo khơi dậy những sáng tạo nghệ thuật đậm đà màu sắc dân tộc. Hoàng Cầm đã dành cho quê hương những tình cảm mãnh liệt nhất, thiết tha và trong sáng nhất. Chính vì vậy bài thơ tạo được sự đồng cảm sâu sắc và cổ sức truyền cảm lay động tâm hồn con người, trở thành biểu tượng đẹp dỗ của tình yêu quê hương đất nước.

Thảo luận cho bài: Bình giảng bài thơ bên kia sông đuống của Hoàng Cầm