Đề bài. Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tâm tư trong tù của Tố Hữu: “Cô đơn thay là cảnh thản tù! Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…”
YÊU CẦU
Bình giảng đoạn thơ để làm rõ các ý sau đây:
— Tâm trạng cô đơn và lòng khát khan cuộc sống bên ngoài của lời chiến sĩ cách mạng bị giam trong tù. Tâm trạng ấy rất thực, rất “người”: người cộng sản là người giàu tình cảm – và đó là tình cảm tha thiết, mãnh liệt.
– Tâm trạng ấy được diễn tả bàng những câu thơ có sức rung động mạnh, với những hình ảnh gợi cảm, những âm thanh đầy ấn tượng. (Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về).
BÀI LÀM
Tố Hữu – cái tên gọi thân quen đã đi vào lịch sử văn học Việt Nam như một biểu tượng của thơ ca cách mạng. Mồi lời thơ tác giả viết ra đều tràn đầy nhuệ khí yêu nước, thấm nhuần tình cảm cách mạng. Với giọng thơ vừa bồi hồi náo nức, vừa mạnh mẽ thiết tha, người đọc dã cảm nhận được cái tôi – cái tôi công dân, cái tôi chiến sĩ của một thanh niên cách mạng đồng thời cũng là cái tôi trữ tình mới mẻ, trẻ trung dạt dào và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. “Tâm tư trong tù” là một bài thơ như thế, mà có lẽ đoạn trích sau đây là đoạn hay nhất, xúc động nhất của cả bài thơ:
“Cô đơn thay là cảnh thân tủi
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi vệ…
“Tâm tư” – ấy là tâm sự, tình cảm và tư tưởng của Tố Hữu trong những ngày đầu bị giam ở nhà lao Thừa Thiên (Huế). Với một người bình thường thì tâm sự ấy có thể là lời nỉ non, cầu khổ hay chua chát; nhưng với Tố Hữu thì không. Đọc bài thơ ta đã phải bất ngờ trước những cảm nhận tinh tế và một giọng thơ chân thành, tha thiết của tác giả:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu”
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu”
Bao trùm lên khổ thơ là cả một tâm trạng “cô đơn”. Lần đầu tiên gặp “cảnh thân tù” Tố Hữu cảm thây cô đơn, thèm khát cuộc sống rộn rã bên ngoài. Và người thanh niên ấy đã hướng ra cuộc sống bên ngoài bằng đôi tai của mình để quên đi cảnh hiện tại. Với cảm nhận tinh tế nhà thơ đã nghe được nhịp đời đang “lăn náo nức”, cảm nhận được cuộc sống bên ngoài thật là “vui sướng biết bao”. Từng câu, từng chữ đầy nuối tiếc, thể hiện tột cùng sự khao khát tự do.
Sở dĩ Tố Hữu cô đơn và phải hướng ra cuộc sống bên ngoài đế quên đi thực tại là vì: trước dó không lâu, tác giả còn là một học sinh, một người thanh niên:
“Bâng khuâng đứng giữa dôi dòng nước Chọn một dòng hay đề nước trôi”
Rồi khi được giác ngộ cách mạng, chọn cho mình một con đường đi đúng đắn, tác giả đã hăng hái hoạt động cách mạng với niềm vui dạt dào trong trái tim tuổi thanh xuân:
” vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo
Bốn phương trời và sau dấu muôn chân
Củng như tôi tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng”
(“Hy vọng”, 1938)
Bốn phương trời và sau dấu muôn chân
Củng như tôi tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng”
(“Hy vọng”, 1938)
Tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trẻ là “một vườn hoa lá. Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Cuộc đời phía trước là mùa xuân bát ngát: “Bạn đời cà vui lắm cả trời hồng”. Với sức sống mãnh liệt ở tuổi đời mười tám, đôi mươi:
“Hai mươi tuổi tỉm đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa”
Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa”
Tố Hữu đang nhìn cuộc đời bằng màu hồng, đang hăm hở bước vào cuộc chiến đấu với tinh thần cách mạrg đầy nhiệt huyết. Vậy mà bồng chốc đã bị nhốt giữa “bốn tường khắc khổ” bị cùm trói, nằm trong xà lim lạnh lẽo tối tám, ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài thì làm sao tác giả tránh khỏi cảm giác cô đơn. Và không chỉ cô đơn mà còn bực bội, u uất.
Trong bài “Khi con tu hú”, Tố Hữu cũng đã thể hiện tâm trạng đó:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chìm tu hú ngoài trời cứ kêu”
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chìm tu hú ngoài trời cứ kêu”
Song, nỗi niềm “cô đơn thay là cành thân tù” ở đây không phải là lời than thở kêu rên hèn yếu. Đó là sự xác nhận – xác nhận một sự thật phũ phàng. Mấy ai chưa phải sống “cảnh thân tù” mà hiểu hết nỗi đời cực nhọc “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nhưng điều quí giá nhất ở đây là tác giả xác định đúng cảnh tù đày:
‘Đời cách mạng từ khi tôi đà hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tủ đầy
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”
Dấn thân vô là phải chịu tủ đầy
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”
Xác định để chấp nhận. Vì yêu nước, gắn bó với cách mạng nên người thanh niên ấy vẫn nguyện; Quyểt hi sinh phá tan hết gông xiểng Cho TỔ quốc muôn muôn năm độc lập”
Nếu không có tâm lòng ham sống thiết tha yêu.đời và tinh thần nhiệt huyết cách mạng thì làm sao Tô Hữu có thể bộc lộ tâm trạng cô đơn của mình bằng những câu thơ hay đến thế. Và điều thể hiện rõ nhất sự thiết tha với đời, muôn hòa nhập với thế giới bên ngoài để quên đi cảnh cô dơn ấy, tác giả đã hướng ra cuộc sống bên ngoài bằng thính giác:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh Nghe lạc ngưa rùng chân bên giếng lanh Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về” Với “tai mở rộng” và “lòng sôi rạo rực”, người thanh niên chăm chú và hào hứng đón nhận mọi âm thanh, mọi diễn biến, luôn ước muốn nắm bắt được vi mạch cuộc sông bằng mọi giác quan, bằng tất cả tâm hồn mình. Cuộc đời đang “lăn”, nhịp đời đang trôi và tiếng đời đang vang xa. Hiện thực là đây tiếng chim reo, tiếng dơi chiều đập cánh, tiếng lạc ngựa và cả tiếng guốc đi về. Đấy là âm thanh của cuộc sông hàng ngày mà người đời thường lãng quên. Thế nhưng với Tô’ Hữu đó lại là sợi chỉ hồng duy nhất nôi nhà thơ với cuộc sống bên ngoài. Nhà thơ đã chăm chú lắng nghe, trân trọng những hoạt động ấy mà tuởng tượng mạnh mẽ với cảnh hùng vĩ “gió mạnh lên triều”, âm thanh vội vã của tiếng dơi chiều đập cánh và cả tiếng ngựa rùng chân để báo hiệu một nước “kiệu” mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bình dị và thân thuộc nhất vẫn là “tiếng guốc đi về một âm thanh nhỏ bé rất dễ bị lãng quên nhưng hình ảnh mộc mạc ấy lại có sức lay động lòng người một cách thấm thìa. Nếu như âm thanh của tiếng chim, tiếng gió và cả tiếng lạc ngựa rừng chân là những nốt nhac dạo đầu, khơi dòng tâm sự thì tiếng guốc nhỏ, to xuất hiện mới xoáy sâu vào trái tim con người. Bởi lẽ mọi âm thanh ấy còn xa lắm, lạnh lẽo lắm; chỉ có tiếng guốc bình dị thân thương mới gần gũi, mang hơi ấm của con người, đó mới là sự sông đích thực. Mới nghe qua ta tưởng tiếng guôc ấy lạc lõng giữa dòng đời, thậm chí còn tầm thựờng nữa. Nhưng càng đọc ta càng cảm nhận thấy tiếng guốc thân thuộc biết bao, gắn liền với mồ hôi và nước mắt của con người cần lao, cũng nhức nhôi như “một tiếng rao đêm” nghe được giữa đêm khuya qua song sắt nhà tù:
“Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi…
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
Tiếng em bước trên dường đêm nhỏ nhỏ
Nhưng cũng đủ cho lòng anh lắng rõ”.
(Xà lim Qui Nhơn tháng 11 – 1941).
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
Tiếng em bước trên dường đêm nhỏ nhỏ
Nhưng cũng đủ cho lòng anh lắng rõ”.
(Xà lim Qui Nhơn tháng 11 – 1941).
Tiếng guốc ấy gợi bao tình cảm của người thanh niên trong cảnh ngộ: thân tù cô đơn. Nghe tiếng guốc đi về mà người thanh niên thấy thèm khát được tự do, được trở về tổ ấm gia đình. Phải có sự cảm nhận tinh tế, một tâm hồn nhạy cảm thế nào, nhà thơ mới có thể nghe và tưởng tượng được cảnh ngoài phố vừa cụ thể vừa sinh động ấy được. Chỉ bằng thính giác mà nhà thơ đã cảm giác được âm thanh, hình tượng và cả cái lạnhđã thấm sâu vào làn nước ở đáy tầng sâu. Tác giả đã tạo nên hai cảnh dôi lập giữa tâm tư trong tù và cuộc sống bên ngoài. Nếu trong tù cô đơn, lẻ loi bao nhiêu thì cuộc sống bên ngoài là sự sống, hương thơm mật ngọt của đời bây nhiêu. Tuy nhiên trong hoàn cảnh tù đày, sự cô đơn ấy không hề làm cho người chiến sĩ cách mạng tàn lụi và nhỏ bé đi mà trái lại đó là động lực để thúc tỉnh, lay gọi và vươn tới, khẳng định một tâm thè giữ trọn “trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”. Nhà tù đầy rẫy những bất công tàn Lạo ấy không thể uy hiếp được tinh thần, không thể giam hãm được tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản, tâm thế ấy vẫn một lòng với cách mạng, vẫn hiên ngang tranh đấu:
“Tu vì ta ba chục triệu người Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”.
Có thể nói đoạn thơ đã minh chứng cho phong cách nghệ thuật trữ tình chính trị của Tố Hữu và nổi bật là cái “tôi” trữ tình. Nói về tâm tư, tình cảm, những trăn trở cũng như khát vọng của một thanh niên hừng hực khí thế cách mạng rất hợp lí, nồng nhiệt và tinh tế. Nhân vật trữ tình là “tôi” nhưng lại là cả một cộng đồng, tâm trạng của riêng, một con người trong tù ngục nhưng lại biểu hiện cho cuộc sống ngục tù của tất cả mỗi người Việt Nam thời ấy. Suy nghĩ và nhận thức của một người chiến sĩ trẻ luôn lắng nghe, trân trọng và nâng niu cuộc sống, khao khát tự do và tràn đầy nhiệt huyết cách mạng. “Tâm tư trong tù’ phản ánh chân thực tình cảm và tâm trạng của người chiến sĩ trẻ trong những ngày đầu bị đọa đầy trong ngục tối: đó là nỗi cô đơn nhưng đích thực là khúc tráng ca về tự do. Bài thơ đẹp vì người chiến sĩ ấy đã sống tuyệt đẹp trong “Máu lửa – xiềng xích – giải phóng”.