Soạn bài sống chết mặc bay (Hướng dẫn 2)
Soạn bài cách làm bài văn lập luận giải thích
I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. (Câu 1, Sgk tr 81)
Đoạn 1: “Gần một giờ đêm… Khúc đê này hỏng mất”: nguy cơ vỡ đê và sự chống đỡ của người dân;
Đoạn 2: “Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn… Điếu mày !”: Cảnh quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm trong khi “đi hộ đê”;
Đoạn 3: Phần còn lại: Cảnh đê vỡ, nhân dân lâm vào tình trạng thảm sầu.
2. (Câu 2, Sgk tr 81)
a) Chỉ ra hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay.
b) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện:
- Một bên là cảnh dân làng đang vật lộn với mưa gió để hộ đê thật thảm thương.
- Một bên là cảnh quan phủ cùng bọn nha lại ung dung bài bạc ngay trong khi bọn chúng đi “hộ đê”.
c) Miêu tả hai cảnh tương phản trên, tác giả có dụng ý lên án tên quan lòng lang dạ thú, mắt đui tai điếc trước nỗi thống khổ của đồng bào huyết mạch.
Mặt tương phản thứ nhất đã được miêu tả bằng nhiều chi tiết thuộc về:
- Thời gian: gần một giờ đêm (ý nghĩa của thời điểm này).
- Độ mưa, độ dâng của nước sông.
- Không khí, cảnh tượng hộ đê: nhốn nháo, căng thẳng (qua tiếng trống, tiếng tù và, tiếng người xao xác gọi nhau hộ đê, qua các hoạt động chống đỡ vừa sôi động vừa lộn xộn của người dân).
- Sự bất lực của sức người trước sức trời. Sự yếu kém của thế đê trước thế nước.
Kết luận: Thiên tai đang từng lúc giáng xuống đe dọa cuộc sống của người dân.
d) Phân tích làm rõ từng mặt trong sự tương phản đó. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về cảnh người dân đang hộ đê trong trạng thái nguy kịch và các chi tiết thuộc về cảnh tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí tĩnh mịch, trang nghiêm.)
e) Phân tích từng mặt trong sự tương phản:
– Cảnh dân làng hộ đê thật thảm thương:
- Thời gian gần một giờ đêm.
- Mưa càng lúc càng to, mực nước sông càng dâng cao: mưa tầm tã trút xuống… nước cứ cuồn cuộn bốc lên.
- Cảnh dân làng hộ đê vất vả, mệt nhọc: kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre… lướt thướt như chuột lột. Không khí nhốn nháo, căng thẳng: Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi…
Cảnh cho thấy sự bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước.
g) Chỉ ra qua hai mặt tương phản, hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc họa như thế nào. (Chú ý đến các chi tiết thuộc về: chỗ ở, điều kiện sinh hoạt trong khi đi “đốc thúc việc hộ đê”; cách ngồi, tư thế, giọng điệu ngôn ngữ trước bọn nha lại, chánh tổng…, đặc biệt là thái độ, cách nói khi đã có tin đê vỡ.)
Phân tích làm rõ mặt thứ hai của sự tương phản: cảnh quan phủ và nha lại, chánh tổng đánh tổ tôm trong đình đã được miêu tả bằng nhiều chi tiết, trong đó tâm điểm là thuộc về tên quan phủ.
- Địa điểm: Gần kề nơi dân chúng phòng chống lụt: “đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chắc…” trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao.
- Không khí, quang cảnh: “tĩnh mịch”, “trang nghiêm”, “nhàn nhã”, “đường bệ”, “nguy nga”, “đèn thắp sáng trưng” (phản ánh uy thế của viên quan phủ với nha lại, tay sai).
- Đồ dùng sinh hoạt cho tên quan phủ trong khi đi “hộ đê” sang cả, quý phái: bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau bạc, rễ tía… (chứng tỏ một cuộc sống hưởng thụ đến tận cùng, quý phái, rất cách biệt với cuộc sống lầm than cơ khổ của nhân dân).
- Dáng ngồi quan dạng, cách nói của tên quan phủ, cảnh tượng kẻ hầu người hạ: nghi vệ tôn nghiêm
- Sự đam mê tổ tôm và quang cảnh đánh tổ tôm của tên quan phủ với nha lại, chánh tổng… Mê mải theo dõi từng quân bài, khoái trá vỗ tay xuống sập khi thắng ván to.
- Thái độ của bọn nha lại, của tên quan phủ khi có người dân quê xông vào báo tin đê vỡ.
- Niềm vui phi nhân tính của tên quan phủ hoàn toàn điềm nhiên trước tiếng kêu vang trời dậy đất của đám dân quê khốn khổ khi đê vỡ: “Ừ! Thông tôm, chi chi nảy”…
3. (Câu 3, Sgk tr 82).
Phép tăng cấp trong truyện ngắn sống chết mặc bay đã được thể hiện qua việc miêu tả các loại chi tiết trong từng mặt tương phản. Với cảnh người dân hộ đê, phép tăng cấp thể hiện trong cách miêu tả thể hiện trong từng chi tiết:
- Cảnh trời mưa mỗi lúc một to: mưa tầm tã, vẫn mưa tầm tã trút xuống.
- Mực nước sông mỗi lúc một dâng cao: nước sông Nhị Hà lên to quá, dưới sông thơi nước cứ cuồn cuộn bốc lên.
- Âm thanh: tiếng trống, tiếng ốc, tiếng người gọi nhau sang hộ mỗi lúc thêm ầm ĩ.
- Sức người mỗi lúc một kiệt, nguy cơ đê vỡ mỗi lúc một đến gần và cuối cùng đê vỡ.
Cảnh trời mưa mỗi lúc mỗi tăng (“mưa tầm tã”, “vẫn mưa tầm tã trút xuống”). Mức nước sông mỗi lúc một dâng cao (“nước sông Nhị Hà lên to quá” “”dưới sông thì nước cứ cuồn cuộn bốc lên”). Âm thanh (tiếng trống, tiếng tù và, tiếng người gọi nhau hộ đê) mỗi lúc một ầm ĩ. Sức người mỗi lúc một đuối. Nguy cơ đê vỡ mỗi lúc một đến gần và cuối cùng đã đến…
Với cảnh quan phủ cùng nha lại đánh tổ tôm trong đình, phép tăng cấp được vận dụng vào việc miêu tả độ đam mê tổ tôm của tên quan phủ mỗi lúc một tăng. Mê bạc do không trực tiếp chứng kiến cảnh hộ đê đã đành, nhưng trước sân đình, mưa đổ xuống mỗi lúc một tăng mà coi như không biết gì thì độ mê đã quá lớn. Đến khi có người dân phu vào báo tin đê vỡ, vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay chân, và rồi quay lại tiếp tục đánh tổ tôm cho đến lúc “ù ! Thông tôm, chi chi nảy” trong một niềm vui sướng cực độ, nhưng là phi nhân tính – nói như tác giả là “lòng lang dạ thú”. Phép tăng cấp trong nghệ thuật có tác dụng làm rõ thêm tâm lí, tính cách nhân vật là như thế.
Tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp:
Hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong bài văn được kết hợp khéo léo để vạch trần tâm địa xấu xa, vô nhân, lên án gay gắt bọn quan lại lòng lang dạ thú và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân ta do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền gây nên.
4. (Câu 4, Sgk tr 82)
a) Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại mà kẻ đứng đầu ở đây là tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.
b) Giá trị nhân đạo: Thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cuộc sống lầm than cơ cực của người dân do thiên tai và thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền đưa đến.
c) Giá trị nghệ thuật: Vận dụng kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp thành công, miêu tả nhân vật sắc nét, sử dụng ngôn ngữ sinh động. Bằng lời văn, sinh động, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật. Sống chết mặc bay lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
LUYỆN TẬP
1. Hình thức ngôn ngữ vận dụng trong truyện “sống chết mặc bay”
Hình thức ngôn ngữ |
Có |
Không |
Ngôn ngữ tự sự |
X |
|
Ngôn ngữ miêu tả |
X |
|
Ngôn ngữ biểu cảm |
X |
|
Ngôn ngữ người kể chuyện |
X |
|
Ngôn ngữ nhân vật |
X |
|
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm |
X |
|
Ngôn ngữ đối thoại |
X |
2. Ngôn ngữ đối thoại của quan phủ.
* Mê bài bạc, không trực tiếp chứng kiến cảnh hộ đê, rồi vùi đầu vào canh bạc, coi như không biết gì, cứ hò hét chánh tổng và bọn nha lại đi bài: Có ăn không thì bốc chứ!
* Đến khi có người dân phu vào báo tin đê vỡ, quan phủ vẫn thờ ơ, lại lên giọng quát nạt bọn tay chân: Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cắt cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày!… Đuổi cổ nó ra!
* Tiếp tục đánh tổ tôm cho đến khi được một ván bài to: Đây rồi!… Thế chứ lại! Ừ! Thông tôm, … Tiếng reo trong niềm vui sướng cực độ, giữa lúc dân làng kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lệnh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ…
Ngôn ngữ đối ngoại trên cho thấy:
- Đây là một viên quan phong kiến hống hách, chỉ biết hưởng thụ phè phỡn.
- Đây là một viên quan mê bài bạc, vô trách nhiệm, sống chết mặc bay, vô lương tâm, lòng lang dạ thú.
- Như vậy ngôn ngữ nhân vật trong truyện phản ánh được những nét về tính cách nhân vật.