Soạn bài: Nghĩa tường minh và hàm ý (tiếp theo)

Soạn bài: Nghĩa tường minh và hàm ý (tiếp theo)

Mời các bạn học sinh tham khảo thêm bài:

Tổng kết phần văn bản nhật dụng

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

  1. Điều kiện sử dụng hàm ý
  2. a) Đọc đoạn trích sau và nêu hàm ý của những câu in đậm.

Chị Dậu vừa nói vừa mếu:

– Thôi u không ăn, để phần cho con. Con chỉ được ăn ở nhà bữa này nữa thôi. U không muốn ăn tranh của con. Con cứ ăn thật no, không phải nhường nhịn cho u.

Cái Tí chưa hiểu hết ý câu nói của mẹ, nó xám mặt lại và hỏi bằng giọng luống cuống :

– Vậy thì bữa sau con ăn ở đâu ?

Điểm thêm một “giây” nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa :

– Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Đoài.

Cái Tí nghe nói giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và oà lên khóc :

– U bán con thật đấy ư ? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng đem bán con đi, tội nghiệp. U để cho con ở nhà chơi với em con.

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

Gợi ý:

– “Con chỉ được ăn ở nhà bữa này nữa thôi.”: Sau bữa ăn này, u sẽ bán con nên con sẽ không được ăn ở nhà nữa.

– “Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Đoài.”: U đã bán con cho nhà cụ Nghị thôn Đoài.

Soạn bài: Nghĩa tường minh và hàm ý (tiếp theo)

Soạn bài: Nghĩa tường minh và hàm ý (tiếp theo)

b) Tại sao chị Dậu không nói thẳng với con mà phải dùng hàm ý?

Gợi ý: Bán đứa con mình đứt ruột đẻ ra là một điều vô cùng đau lòng đối với chị Dậu. Cho nên, chị phải nói hàm ý để giấu đi nỗi đau ấy, tránh chạm phải điều đau lòng ấy.

c) So sánh hai câu nói hàm ý của chị Dậu và cho biết ở câu nào mức độ hàm ý thấp hơn? Vì sao?

Gợi ý: Mức độ hàm ý ở câu thứ hai thấp hơn, nghĩa là người nghe có thể hiểu được ý của người nói dễ hơn. Vì cái Tí chưa hiểu hết ý của mẹ ở câu nói hàm ý thứ nhất nên chị Dậu phải nói rõ hơn ở câu thứ hai.

d) Chi tiết nào trong đoạn trích cho thấy cái Tí đã hiểu được hàm ý trong câu nói của chị Dậu?

Gợi ý: Thái độ “giãy nảy”, “liệng củ khoai vào rổ và oà lên khóc”, câu nói “U bán con thật đấy ư?…” cho thấy cái Tí đã hiểu hàm ý trong câu nói của mẹ nó.

e) Như vậy, để sử dụng hàm ý, cần chú ý tới 2 điều kiện sau:

– Người nói (người viết) có chủ ý đưa hàm ý vào câu nói.

– Người nghe (người đọc) có thể giải đoán (hiểu được) hàm ý.

II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

  • Người nói, người nghe những câu in đậm dưới đây là ai? Hàm ý của mỗi câu ấy là gì?
  • a) – Anh nói nữa đi – Ông giục.

– Báo cáo hết ! – Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ – Năm phút nữa là mười. Còn hai mươi phút thôi. Bác và cô vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đấy.

Thì giờ ngắn ngủi còn lại thúc giục cả chính người hoạ sĩ già. Ông theo liền anh thanh niên vào trong nhà, đảo nhìn qua một lượt trước khi ngồi xuống ghế.

(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

b) – […]Anh Tấn này ! Anh bây giờ sang trọng rồi, còn cần quái gì các thứ đồ gỗ hư hỏng này nữa. Chuyên chở lại lịch kịch lắm. Cho chúng tôi khuân đi thôi. Chúng tôi nhà nghèo dùng được tất.

– Có gì đâu mà sang trọng ! Chúng tôi cần phải bán các thứ này đi để…

– ái chà ! Anh bây giờ làm quan rồi mà bảo là không sang trọng ? Những ba nàng hầu. Mỗi lần đi đâu là ngồi kiệu lớn tám người khiêng, còn bảo là không sang trọng ? Hừ ! Chẳng cái gì dấu nổi chúng tôi đâu !

Tôi biết không thể nói làm sao được đành ngậm miệng, đứng trầm ngâm.

c) Thoắt trông nàng đã chào thưa

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây !
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Gợi ý:

  1. a)“Chè đã ngấm rồi đấy.”: Người nói là anh thanh niên, người nghe là ông hoạ sĩ và cô con gái. Hàm ý là: Mời bác và cô vào uống nước.
  2. b) “Chúng tôi cần phải bán các thứ này đi để…”: Người nói là anh Tấn, người nghe là chị hàng đậu. Hàm ý là: Chúng tôi không thể cho những thứ này được.
  3. c) ở cả hai câu, người nói là Thuý Kiều, người nghe là Hoạn Thư.

– “”Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây !”: Người quyền uy, quý phái như tiểu thư mà cũng có lúc phải đến đây ư? (câu này có ý giễu cợt).

– “Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.””: Rồi đây người cay nghiệt như ngươi sẽ phải lĩnh sự báo oán thích đáng.

  1. Trong các trường hợp trên, người nghe có hiểu hàm ý của người nói không? Dựa vào đâu để khẳng định như vậy?

Gợi ý: Trong các trường hợp trên, người nghe đều hiểu được hàm ý của người nói. Các chi tiết sau đây chứng tỏ điều này:

– (a): Ông theo liền anh thanh niên vào trong nhà, đảo nhìn qua một lượt trước khi ngồi xuống ghế.

– (b): – Ôi dào ! Thật là càng giàu có càng không dám rời một đồng xu ! Càng không dám rời đồng xu lại càng giàu có !

– (c): Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,- Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.

  1. Phân tích hàm ý của câu in đậm trong đoạn văn dưới đây và cho biết tại sao em bé không nói thẳng ra mà phải sử dụng hàm ý. Việc sử dụng hàm ý trong trường hợp này có đạt hiệu quả không? Vì sao?

Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên:

– Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái! – Nó cũng lại nói trổng.

Tôi lên tiếng mở đường cho nó:

– Cháu phải gọi “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy.

Nó như không để ý đến câu nói của tôi, nó lại kêu lên:

– Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!

Anh Sáu vẫn ngồi im […].

(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)

Gợi ý:

– “ Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”: Hàm ý là: chắt giùm nước để cơm khỏi nhão.

Em bé phải nói hàm ý vì trước đó đã nói thẳng ra nhưng không có hiệu quả; lần này không cần nhắc lại ý “chắt giùm nước” mà thêm vào ý giục giã: “nhão bây giờ!”.

– Việc sử dụng hàm ý trong trường hợp này không có hiệu quả, vì người nghe không tiếp nhận, từ chối cộng tác bằng cách “ngồi im”, vờ như không nghe bởi vì lời nói đó không phải để nói với mình.

  1. Điền một câu có hàm ý từ chối vào lượt lời của B trong đoạn thoại sau đây:

A: Mai về quê với mình đi!

B: /…/

A: Đành vậy.

Gợi ý: Có thể thông báo một việc nào đó mà B không thể vắng mặt để ngầm nói là bận, không thể về quê cùng A được.

  1. Trong đoạn văn sau đây, Lỗ Tấn so sánh “hi vọng” với “con đường” nhằm hàm ý điều gì?

Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.

(Lỗ Tấn, Cố hương)

Gợi ý: Sự so sánh này có hàm ý: Tuy hi vọng không thể nói chắc đâu là thực, đâu là hư nhưng nếu cứ quyết tâm thực hiện thì sẽ đạt được.

  1. Đọc lại bài thơMây và sóngcủa Ta-go để:
  2. a) Tìm những câu có hàm ý mời mọc hoặc từ chối trong các đoạn đối thoại giữa em bé với những người ở trên mây và sóng.
  3. b) Viết thêm vào mỗi đoạn một câu có hàm ý mời mọc rõ hơn.

Gợi ý:

– (a): Các câu có hàm ý mời mọc:

+ “Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc.”

+ “Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nao”.

Các câu có hàm ý từ chối:

+ “Mẹ mình đang đợi ở nhà”

+ “Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”

– (b): Có thể viết thêm câu có hàm ý mời mọc rõ hơn:

+ Có ai muốn chơi cùng bọn tớ không đấy?

+ Chơi với bọn tớ rất tuyệt!

Thảo luận cho bài: Soạn bài: Nghĩa tường minh và hàm ý (tiếp theo)