Kỹ năng phân tích thơ – Chương 5

Kỹ năng phân tích thơ – Chương 5
Mời các bạn tham khảo thêm:
             Yêu cầu cao nhất của một bài phân tích thơ là phải viết đúng và viết hay. Viết đúng đã khó, viết cho hay lại càng khó hơn. Để bài phân tích đạt hiệu quả cao, ngoài những kỹ năng cơ bản phân tích thơ, người làm văn phải đảm bảo yêu cầu về những kiến thức hỗ trợ khác. Kiến thức càng phong phú thì việc phân tích càng sâu sắc. Có thể nêu ra một số lĩnh vực kiến thức sau:
            1.Kiến thức văn học sử :
            Văn học là một hiện tượng lịch sử ra đời và phát triển theo thời gian. Tiếp nhận một tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm thơ nói riêng không nên tách nó ra khỏi phạm trù lịch sử, không nên xem nó như một cá thể độc lập, thoát li hẳn mối quan hệ, ràng buộc của xã hội.
            Kiến thức về văn học sử bao gồm là những hiểu biết về các trào lưu văn học, giai đoạn văn học, thời kì văn học ; nó còn là những hiểu biết có hệ thống về từng tác gia cụ thể. Đứng trước một tác phẩm thơ, người làm văn phải biết huy động sở biết của mình về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, nó thuộc thời kì, giai đoạn và trào lưu văn học nào ?…, cuộc đời và quá trình sáng tác của tác giả ra sao ? … để từ đó nhận xét và đánh giá các vấn đề về phương diện lịch sử cũng như nghệ thuật trong thi phẩm.
Thực tê, trong chương trình sách giáo khoa về văn học, những kiến thức về văn học sử vẫn còn ít, chưa có tính hệ thống . Người học nếu cầu tiến tất phải tự tìm tòi, nghiên cứu ở những sách vở khác .
 2. Kiến thức lí luận văn học :
Lí luận văn học là một bộ môn công cụ, giúp độc giả có cơ sở thâm nhập vào thi phẩm. Loại kiến thức này khá nhiều và tương đối phức tạp. Việc vận dụng kiến thức này vào bài làm khá linh hoạt và tuỳ theo từng trường hợp mà có yêu cầu khác nhau. Trước hết, trong bài làm văn, người viết thường xuyên sử dụng các thuật ngữ, khái niệm của lí luận văn học, như: hư cấu, điển hình, hình ảnh, hình tượng… Nếu không có sự hiểu biết đầy đủ, người viết sẽ dùng sai khái niệm.
Ở mức độ phức tạp hơn, khi làm bài người viết phải có kiến thức lí luận để lí giải một vấn đề nào đó trong tác phẩm thơ , ví như: cái tâm và cái tài của nhà thơ, bản chất của thơ ca, cá tính sáng tạo của nhà thơ … Để làm được những vấn đề đó, ta phải hiểu căn bản về các vấn đề lí luận như nguồn gốc thơ ca, đối tượng phản ánh, đặc trưng ngôn ngữ thơ …
Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình , nó thức dậy những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được cái diện không gian thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp .”
                       (Thời và thơ Tú Xương – Nguyễn Tuân )
3. Kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ :
 Ngôn ngữ là phương tiện để con người thể hiện những điều mình đã tư duy. Bài phân tích thơ đúng và hay tuỳ thuộc rất lớn vào kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của người viết. Thật khó diễn đạt trọn vẹn cái điều mình nhìn thấy, cảm thấy, tư duy thấy. Thực tế, rất nhiều lúc ngôn ngữ diễn đạt không theo kịp tư duy. Để khắc phục những bất cập này, người làm văn phải có ý thức thường xuyên tích luỹ vốn ngôn ngữ, trau dồi kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Kiến thức về ngôn ngữ giúp người viết vừa xâm nhập vào tác phẩm, vừa diễn đạt những điều mình cảm nhận được từ tác phẩm. Riêng ở mặt sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt, yêu cầu người viết phải viết đúng và hay theo các cấp độ sau:
+ Dùng từ: Yêu cầu người viết phải biết dùng từ độc đáo. Sẽ rất chán nản cho người đọc khi một bài viết không dùng được một từ cho hay, cho độc đáo. Dùng từ hay thì mới có đoạn hay rồi bài hay.Từ hay là từ dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được cái thần thái của vấn đề nào đó trong bài thơ, làm cho câu văn có hồn, có sinh khí, làm cho người đọc  sung sướng thán phục. Hạ được từ có ” thần “, giá trị của bài viết được nâng lên đáng kể. Thử xem và học tập cách dùng chữ của các nhà phê bình:
” Khúc bạc mệnh đã gẩy xong rồi, mà oán hận vẫn còn dài mãi nên Nguyễn Du mới tự xưng cái tên thân mật của mình và đau đáu hỏi :
                        Bất tri tam bách dư niên hậu
                        Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như “
                                                            (Xuân Diệu )
” Loại từ ” mảnh ” trong ” mảnh mặt trời ” cũng mới lạ; người ta chỉ nói mảnh sành, mảnh giấy, thậm chí mảnh trăng vì trăng khi tròn khi khuyết, có khi bị xẻ làm đôi. Hình ảnh ” mảnh mặt trời ” gợi ra cái nhìn tàn bạo của con hổ muốn giẫm nát cả vũ trụ “
                                    ( Nam Chi – Thế Lữ cuộc đời trong nghệ thuật )
” Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước bọt mép của mụ văng ra mà tới ngàn năm ”     (Xuân Diệu )
Cũng nên lưu ý rằng từ hay, từ có ” thần ” không phải là những từ ” đao to búa lớn ” , hoa mỹ, công thức, sáo rỗng… mà là những từ bình thường nhưng quan trọng là sử dụng đúng chỗ.
Kỹ năng phân tích thơ – Chương 5

Kỹ năng phân tích thơ – Chương 5

+ Viết câu :
Phương tiện ngôn ngữ cơ bản để diễn ý là câu. Một câu luôn diễn đạt một nội dung nào đấy. Muốn cách diễn đạt khỏi đơn điệu nhàm chán người viết phải biết cách sử dụng nhiều kiểu câu. Tính linh hoạt trong việc sử dụng câu ở chỗ : tuỳ từng lúc, từng nơi, tuỳ giọng văn của từng đoạn mà có những loại câu tương ứng. Khi người viết muốn biểu đạt tình cảm của mình thì dùng câu cảm thán; lúc muốn gây sự chú ý cho người đọc ta có thể dùng câu nghi vấn để đặt vấn đề và tự trả lời để giải quyết
vấn đề; khi muốn nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ theo nhiều mối quan hệ ta dùng câu có cặp quan hệ từ : tuy – nhưng, càng – thì càng, không những – mà còn, nếu – thì …, khi muốn khái quát vấn tổng hợp đề ta dùng kiểu câu có tính chất quy nạp toàn thể với các từ mở đầu : nhìn chung, đại thể, về cơ bản, phần lớn …
+ Ngôn ngữ làm văn phân tích thơ cũng phải có tính tạo hình và gợi cảm:
Về mặt khoa học, bài phân tích thơ là loại văn của tư duy logic. Văn ý phải rõ ràng, sáng sủa, lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục lí trí. Tuy nhiên, không phải vì thế mà bài phân tích thơ chỉ trình bày một cách khô khan máy móc, chối bỏ cảm xúc và hình ảnh. ngôn ngữ phân tích thơ thiết nghĩ  cũng phải có chất thơ, phải hấp dẫn lôi cuốn người đọc bằng từ ngữ có
tính tạo hình và giàu sức biểu cảm. Ví dụ :
” Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời thi ca Việt Nam với cái đuôi chói loà rực rỡ của mình.”
                                                            (Chế Lan Viên )
” Nếu chúng ta liệt Tú Xương vào loại đỉnh thơ Nôm, thì ” Sông lấp ” chính là cái bóng cây hiên ngang trên sườn non đó vậy. Dẫn thơ Tú Xương mà vô tình hoặc cố ý đánh rớt bài ” Sông lấp “, tức là bước lên lầu táp, mở của tầng này tầng kia mà quên mất cái chuông trên vọng lâu vậy “
                                                (Nguyễn Tuân – Thời và thơ Tú Xương )
Những lời bình luận, đánh giá trên phải chăng có sức sống riêng, ám ảnh độc giả là nhờ ngôn ngữ của nó giàu chất tạo hình và biểu cảm ?

 

4. Kiến thức về các bộ môn liên quan :
Sóng Hồng định nghĩa ” Thơ là nhạc là hoạ là điêu khắc theo một phong cách riêng”. 
Định nghĩa này cho thấy thơ ca liên quan đến các ngành nghệ thuật khác. Hơn thế, thơ ca luôn chứa đựng nhiều vấn đề, phạm trù xã hội khác nhau. Do vậy, để có thể xâm nhập trọn vẹn vào tác phẩm thơ, chúng ta cần phải có hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, như : Lịch sử, Địa lý, Triết học, Đạo đức học … Những kiến thức này là những luận cứ ( vừa tiềm tàng vừa hiện thực ) góp phần soi sáng các hiện tượng thơ ca.
Để đi đến cái đích cuối cùng nội dung biểu đạt của từ ” đế ” trong bài ” Nam quốc sơn hà ” ( Lí Thường Kiệt ) tất phải đụng đến lịch sử mà cụ thể là vấn đề phong vương xưng đế của các vị vua Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ.
Để thấy rõ nỗi đau khi phải sống trong cảnh đội trời chung với giặc và khát vọng hoà bình hạnh phúc của nhân dân vùng lục tỉnh thời năm 1862 thì phải nắm rõ các địa danh ” Bến Nghé ” , ” Đồng Nai ” trong câu văn sau:
” Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ. “
                        ( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu )
Thơ ca là hình thái tự do trung thành nhất của tư tưởng. Cảm thụ thơ ca vì thế phải có những hiểu biết rất căn bản về các hệ tư tưởng, các trào lưu triết học để việc nhận xét đánh giá thêm sâu sắc.
Nếu không thông hiểu triết học đông tây kim cổ thì làm sao Hoài Thanh có được nhận xét sâu sắc sau :” Từ cánh cò lặng lẽ bay với nắng chiều trong thơ Vương Bột đến cánh cò trong thơ Xuân Diệu cách nhau ngàn năm và hai thời đại thi ca. “
Và như hai câu thơ sau :
                        ” Dạ thưa xứ Huế bây chừ
                        Vẫn là núi Ngự bên bờ sông Hương”
                                                            (Bùi Giáng )

Nếu không biết được ” thấy núi vẫn là núi, thấy sông vẫn là sông ” trong tinh thần nhà Phật thì làm sao thấy được vẻ đẹp an nhiên tự tại của câu thơ . ..

Thảo luận cho bài: Kỹ năng phân tích thơ – Chương 5