Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 4

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 4

Mời các em học sinh tham khảo thêm bài viết:

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 3

D. QUAN NIỆM CON NGƯỜI TRONG VĂN CHƯƠNG TRUNG ĐẠI:

1. Con người vũ trụ:

a. Thời trung đại, con người và TN tạo vật được nhìn nhận là một khối thống nhất. Con người là một tiểu vũ
trụ luôn tìm về hội nhập cùng đại vũ trụ. Con người vì thế luôn quan hệ với vũ trụ.
– Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương: con người vũ trụ.
– Con người vũ trụ thể hiện qua một thi đề phổ biến của thơ trữ tình: con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ, có kích thước vũ trụ.
+ Con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
(Chinh phụ ngâm-Đặng Trần Côn)
+ Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì núi sông chứng giám lòng thành thủy chung. Khi xử thế lánh đục tìm trong, vong bần lạc đạo, con người tìm về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng. Khi nhập thế thì rồng mây gặp hội.
+ Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông núi:

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu
(Thuật Hòai-Phạm Ngũ Lão)

Hay:

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
(Nguyễn Cổng Trứ)

+ Người đẹp là người sánh ngang với sự hòan mỹ của vũ trụ và khiến trời đất cũng ghét ghen:

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
(Kiều– Nguyễn Du)

Hoặc:

Chìm đáy nước cá lờ đờ lặng
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa
(Cung oán ngâm–  Nguyễn Gia Thiều)

b. Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần hòan của vũ trụ, âm dương tiêu trưởng. Tư tưỏng đó là thiên mệnh. Thấm nhuần tư tưởng trên, nên người quân tử “xuất xư”, “hành tàng” một cách ung dung thanh thản: gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ luôn sống theo khái niệm “Thời”, theo qui luật: bĩ tắc thái, cùng tắc thông. Trong văn chương xưa, ta thường thấy hình ảnh con người sống theo đạo trời, bước đi cùng tạo hóa. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào thiên nhiên; thậm chí muốn nhập hẳn vào vũ trụ:

Trên đồi có thông
Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong
(Nguyễn Trãi)

 

2. Con người đạo đức:

a. Thời cổ-trung đại, Người ta chưa phân biệt được tâm và vật. người ta gán tâm cho vật. Vạn vật khách quan
đều có tính chủ thể. Thời gian, không gian đều có xấu tốt, độc lành. Tòan bộ xã hội được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo – đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực văn hóa.

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 4

Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 4

b. Văn chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải ở bình diện khách quan mà chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân loại phân hóa thành hai cực đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phân hóa thành hai tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và nịnh, quân tử và tiểu nhân. Chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối với các loại tiêu thuyết, cổ tích thời trung đại:

Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(Nguyễn Đình Chiểu)

c. Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực mà chỉ để chuyên chở đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của văn học được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu. Văn chương gần như minh họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ; khuyên con người tích thiện, hành thiện.

Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ  răn việc trước, lành dè thân sau
(Nguyễn Đình Chiểu)

Hay:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
(Nguyễn Du)

d. Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới có tính chất lưỡng nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời cao cả thánh thiện. Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường thiên về cái đẹp phi vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng văn học chủ yếu được xây dựng bằng thị giác, thính gíác. Hình tượng vị giác, nhất là xúc gíac bị xem là thô tục, phi mỹ học.

3. Con người phi cá nhân:

a Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân chưa được quan niệm rạch ròi và xây dựng thành một hình
tượng nghệ thuật. Đây là một vấn đề có cơ sở xã hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện kinh tế, không dựa trên nền tảng cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn nhận như một cá nhân cá thể ý thức. Giá trị cá nhân không được xem xét từ bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò của cá nhân trong mối quan hệ giai tầng.

b. Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu nước,… tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng cấp.
– Nhân vât trong các truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai, nghĩa là họ diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những nghi thức áp đặt bên ngoài.
– Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ, tình yêu của giai nhân tài tử đều có những nghi thức riêng.

c. Như vậy, thời phong kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải phóng về nhiều phương diện. Con
người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình cảm. Con người xuất hiện trong văn chương với mối quan hệ tình và nghĩa; nhưng không có màu săc cá nhân.

d. Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm cũng giống nhau. Các nhà văn
thường sử dụng hành vi bên ngoài và những dấu hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo giận quân xâm lược thì “nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Kiều Nguyệt Nga thủy chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình yêu mà mang theo trên đường công Phiên. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến héo hon, sầu não thì “khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.

4. Con người ý thức:

a. Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở trên là xét về đại thể, xét trong một giai đọan văn học
từ thế kỉ X-đầu thế kỉ XVIII. Trong thực tiễn đời sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia không phải là không có con người cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất là ở giai đọan cuối thế kỷ XVIII.

b. Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng khủng hỏang sâu sắc. Mọi chân giá trị của xã hội bị đảo lộn hay băng hoại. Đây cũng là thời đại khởi nghĩa của nông dân. Chính từ điều kiện xã hội ấy, ý thức cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Con người cá thể cảm thấy bị trói buộc nặng nề phi lý của đạo lý, của lễ giáo phong kiến, của hệ thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.

c. Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính chất phản phong xuất hiện như Cung óan ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác giả dõng dạc khẳng định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,…

C1  – Có thể đơn cử thơ Hồ Xuân Hưong để minh chứng cho điều đã nói ở trên. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, đã trưng ra cá tính nổi lọan trên những trang viết của mình. Hồ Xuân Hương đã làm vỡ tung hệ thống ước lệ nghiêm ngặt của văn học trung đại.

Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân tử đều bị phàm tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng mỏi gối chồn chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo “Đèo Ba dội”, cũng mụ mị ngắm nhìn “Cá giếc le te lội giữa dòng”, cũng:

Trai đu gối hạc lom khom cật
Gái uốn lưng ong ngữa ngữa lòng.
(Đánh đu)

Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người phụ nữ “Làm lẽ”. Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch cái thế giới nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học; để khẳng định một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho thơ.

Qủa cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
(Mời trầu)

Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và tái hiện tạo vật thế giới, xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc màu, thanh âm, đường nét sống động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới bộc lộ trọn vẹn tình cảm của nữ sĩ:

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mỏm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom !
(Tự tình I)

C2- Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công trứ con người cá nhân ý thức. Nguyễn Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể của cá nhân. Hưởng lạc là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian hữu hạn. Do vậy, ta hiểu vì sao nhà thơ không dùng khái niệm “Trăm năm” mà dùng “Ba vạn sáu nghìn ngày”. Nhưng
cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công Trứ nằm trong phạm vi thể hiện cái tài tình của cá nhân: “Bài ca ngất ngưỡng” hay:

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao

hoặc:

Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái riêng tư tự hào, tự cho là đủ. Tất cả tạo nên một con ngươi cá nhân trong thơ hài hòa, tự tin, phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính tóan được mất khen chê. Đấy là bước phát triển cao nhấy của ý thức cá nhân mang nội dung phong phú, hài hòa trong văn học Việt Nam  thời trung đại.

Thảo luận cho bài: Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam – phần 4